Phân tích thành ngữ 'Thi trung hữu họa' qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng tuyển chọn dàn ý chi tiết kèm theo 4 mẫu văn mẫu cực hay, giúp học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kỹ năng phân tích và đánh giá đoạn thơ một cách hiệu quả hơn.
TOP 4 mẫu phân tích bút pháp thi trung hữu họa trong bài thơ Tây Tiến bao gồm cả các bài làm ngắn gọn và đầy đủ để các bạn tham khảo, lựa chọn theo khả năng của mình, giúp học sinh dễ dàng chuẩn bị tốt hơn cho môn Ngữ văn.
Dàn ý phân tích bút pháp 'Thi trung hữu họa' qua bài Tây Tiến
I. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác phẩm 'Tây Tiến' của Quang Dũng và câu thành ngữ 'Thi trung hữu họa'
II. Nội dung chính
a. Diễn giải thành ngữ 'Thi trung hữu họa'
- Diễn đạt ý nghĩa của các từ: 'thi' (thơ), 'trung' (trong), 'hữu' (có), 'họa' (hội họa)
- Lí giải mối quan hệ giữa thơ và hội họa:
- Cả hai đều là dạng biểu hiện của nghệ thuật.
- Cả hai đều sử dụng các phương tiện riêng để tạo ra ý nghĩa và giá trị (thơ ca sử dụng từ ngữ, hình tượng; hội họa sử dụng màu sắc, đường nét).
- 'Thi trung hữu họa' là bởi văn học phản ánh thực tế cuộc sống một cách khách quan thông qua việc diễn đạt các hình ảnh, khối hình bằng ngôn từ.
b. Phân tích, bình luận về ý kiến 'Thi trung hữu họa' qua bài thơ 'Tây Tiến'
- Chất 'họa' được thể hiện qua hình ảnh về thiên nhiên núi rừng miền Tây với sự tươi đẹp:
- Uy nghiêm, hùng vĩ
- Duyên dáng và lãng mạn.
- Chất 'họa' được thể hiện qua hình ảnh chân dung của người lính Tây Tiến với sự quyến rũ, hùng tráng
- Bằng những kỹ thuật nghệ thuật như mô tả từ phổ quát đến cụ thể, sự đối lập tương phản,... chất 'họa' được thể hiện.
III. Kết bài:
- Đánh giá về giá trị của chất họa đối với bài thơ Tây Tiến
Bút pháp thi trung hữu họa trong Tây Tiến - Mẫu 1
Bài thơ 'Tây Tiến' của Quang Dũng từ lâu đã trở thành một minh chứng tiêu biểu cho đặc điểm 'thi trung hữu họa' của thơ. Trong bài thơ này, sự kết hợp giữa hai yếu tố thơ và họa được thực hiện một cách hài hòa. Quang Dũng, một nghệ sĩ đa tài, có thể làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc... Ông đã thể hiện thành công sự am hiểu về hội họa, điều này đã giúp ông tạo ra những bài thơ như những tấm tranh. Bằng cách tận dụng triệt để chất họa của ngôn từ, Quang Dũng đã tái hiện khung cảnh núi rừng miền Tây Bắc của đất nước như một bức tranh sống động, với những dốc cao, vực sâu, với mây che phủ đỉnh núi, với thung lũng mờ sương.. Bức tranh thiên nhiên đó không chỉ có chiều cao, chiều sâu, mà còn có những đường nét, màu sắc được phối vô cùng tinh tế. Chính vì thế, không ngẫu nhiên mà nhiều họa sĩ sau này đã sử dụng bài thơ này để chuyển thể thành những tác phẩm hội họa nghệ thuật nổi tiếng.
Trong số nhiều câu thơ sôi động về hội họa, không thể bỏ qua những dòng thơ đặc biệt sau:
'Dốc dựng, đoạn đoạn thăm thẳm
Heo hút mây cồn, súng ngửi trời
Ngàn thước cao, ngàn thước thấp
Ai đã trải qua vùng Tây Bắc, nhất định sẽ khó quên những dốc núi vĩ đại và hiểm trở ở đây. Những câu thơ về hội họa của Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp uy nghi của dãy núi miền Tây:
'Dốc dựng, đoạn đoạn thăm thẳm'
Nhịp thơ 4/3 kết hợp với từ ngữ 'dốc' và các từ miêu tả sâu sắc đã tạo nên hình ảnh về những dốc núi miền Tây cao vút, uốn cong, liên tục như một đoạn đoạn, một dòng chảy không ngừng. Đây thực sự là một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời!
Bức họa đó không chỉ mô tả về dốc núi gồ ghề với đá tai mèo mà còn được trang trí bởi những đám mây trắng muốt, đặc biệt là hình ảnh của một ngôi làng nhỏ chìm trong mưa suối núi sương lạnh: 'Heo hút cồn mây', 'mưa xa khơi'.. làm cho bức tranh thiên nhiên không chỉ ấn tượng với núi cao, vực sâu mà còn rất quyến rũ với những đám mây trắng, cơn mưa rừng mềm mại.
Chất họa trong bài thơ cũng được thể hiện qua tính mơ mộng, lãng mạn của bức tranh thiên nhiên buổi chiều sương ở Châu Mộc:
'Người qua Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên cồn mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa'
Tiếp tục tận dụng sức mạnh của từ ngữ hội họa, bốn dòng thơ như một bức tranh đẹp về cảnh thiên nhiên miền Tây. Ngòi bút của Quang Dũng thực sự có phép màu khi chỉ cần vài nét đã tạo ra một bức tranh sông nước thơ mộng như trong truyện cổ tích. Trong làn sương chiều, mọi thứ trở nên mơ hồ, huyền ảo. Cảnh sắc mờ nhạt như những nét vẽ cổ điển trên tấm lụa. Bức tranh thiên nhiên qua vài nét tóm tắt có hình bóng nhỏ bé, có hồn lau nẻo bên bờ, có cánh hoa nhấp nhô trên dòng nước lũ.. đã tạo nên ấn tượng về vẻ đẹp duyên dáng của chiều sương ở Châu Mộc.
Từ ngôn từ trong bài thơ 'Tây Tiến' không chỉ có khả năng mô tả những bức tranh thiên nhiên tuyệt vời, mà còn có khả năng tạo ra bức tranh về binh đoàn Tây Tiến với những nét vẽ mạnh mẽ, uy nghi, nhưng cũng đầy mơ mộng, hào hoa.
Các nét vẽ về nhân vật trong bài thơ liên tục thay đổi: Khi chúng ta thấy họ vượt qua những dốc đồi rậm rạp, khi lại thấy họ đang đan tay nhau hát vang trong âm nhạc của dân ca đêm hò lửa trại, khi thấy họ trầm mặc nhìn về phía quê hương yêu dấu, khi lại thấy họ hào hùng trong tư thế tiến công..
Do đó, bài thơ 'Tây Tiến' có thể xem là minh chứng rõ ràng cho phong cách viết 'thi trung hữu họa' đặc biệt của thơ. Bằng nét bút tài hoa đậm chất lãng mạn, Quang Dũng đã sáng tạo ra một tác phẩm với đầy đủ tinh thần hội họa, cả khi ông viết về thiên nhiên, hay về con người. Để tạo ra nét hội họa đặc trưng đó, trước hết là hệ thống từ ngữ phong phú, sau đó là bút pháp tương phản, đối lập đặc trưng của thơ lãng mạn, ngòi bút chỉ vẽ phác họa chứ không miêu tả chi tiết, điểm nhìn xa, gần xen kẽ tạo nên sự phong phú và đa chiều cho bức tranh Tây Tiến.
Ngoài thuật ngữ 'Thi trung hữu họa', thơ còn liên quan đến một số thuật ngữ khác như 'Thi trung hữu nhạc', 'Thi dĩ ngôn chí'...
Bút pháp thi trung hữu họa trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 2
Quang Dũng là một trong những tác giả nổi bật trong thơ ca kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến được xem là một tác phẩm xuất sắc, có thể coi là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay từ thời điểm ban đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ nảy sinh từ một tâm trạng nhớ nhung, về những người bạn đồng đội và những kỷ niệm, những ngày tháng không thể quên của tác giả với binh đoàn Tây Tiến, liên quan đến vùng đất miền Tây vừa hùng vĩ vừa đầy mộng mơ. Kỷ niệm đó đã thức tỉnh mọi cảm xúc, ký ức giúp nhà thơ tạo ra bức tranh thiên nhiên và hình ảnh người lính sâu sắc với phong cách hội họa.
Thơ là một hình thức biểu diễn cảm xúc thông qua việc sắp xếp từ ngữ đặc biệt, phong phú về âm nhạc, hình ảnh và tác động cảm xúc. Bút pháp “thi trung hữu họa” ám chỉ sự hiện diện của hình ảnh trong thơ. Nói về đặc điểm của thơ trữ tình, nói đến việc sử dụng hình ảnh phong phú, tạo nên sự sống động, khiến người đọc như thấy khung cảnh trước mắt.
Tính họa được tạo ra trong cảm xúc nhớ nhung, nhớ mong manh giữa hai thế giới thực và ảo:
Sông Mã đã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ vẫn chơi vơi
Bài thơ mở đầu bằng lời kêu gọi sâu lắng, ngọt ngào. Tác giả nhớ đến trung đoàn Tây Tiến, nhớ đến con sông Mã một cách thân mật, gợi lên những cảm xúc sâu xa như khi gọi tên những người thân yêu trong cuộc sống. Có lẽ trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc đã trở thành một phần của tâm hồn tác giả khi ở gần, và khi rời xa vùng Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một phần không thể thiếu trong trí óc của ông.
Ký ức về những kỷ niệm mong manh gợi lên cảm giác của không gian rộng lớn, và nhấn mạnh sự xa cách về thời gian. Tất cả đã trở về quá khứ. Quang Dũng kêu gọi, hy vọng như một cách để giữ lại mọi kỷ niệm quay trở lại. Và trong cảm xúc đó, nhiều ký ức, nhiều hình ảnh hiện về.
Tính họa được thể hiện thông qua những địa danh và thời tiết khắc nghiệt của vùng đất miền Tây:
Sài Khao sương mù bao phủ đoàn quân
Mường Lát hoa nở trong đêm giá rét
Sài Khao, Mường Lát là hai địa danh tiếp theo được nhắc đến. Những tên này như một lời kêu gọi, tạo ra hình ảnh về những vùng đất hoang vu, cô đơn và buồn bã. Chúng là những dấu vết của những người lính. Và chính ở những nơi hoang tàn đó, ký ức trỗi dậy dưới lớp sương bao phủ, che khuất cả đoàn quân mệt mỏi. Sương mù dày đặc, cái lạnh buốt làm trơn những con đường, làm người ta tê lạnh.
Hình ảnh “Mường Lát hoa nở trong đêm giá rét” rất đặc biệt. Đêm giá rét là đêm lạnh và ẩm. Điều này làm nổi bật tính khắc nghiệt của thời tiết. Tuy nhiên, hình ảnh hoa nở mang đến nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó có thể là hoa thực sự, nở rộ trong đêm lạnh. Nhưng cũng có thể hiểu, khi các chiến sĩ di chuyển vào ban đêm, những đốt lửa mà họ mang theo giống như những bông hoa lửa, giúp đẩy lùi cái lạnh và bóng tối.
Tính hoạ rất rõ nét qua hình ảnh các dốc núi ở miền Tây Tiến:
Dốc núi cao ngất, mây trắng phủ kín
Thơ mình làm chi, lòng biết bao phận người
Bước chân lên xuống, dốc non thăm thẳm
Nhớ nhà xa xôi, tình quê chưa dứt
Vùng đất ta, dốc dập trùng trùng
Nhưng lời thơ Quang Dũng, mộng mơ như bút phong
Từ dốc này đến dốc khác, triền miên lâu dài
Cùng binh đoàn Tây Tiến, dấn thân bước quân hành
Dốc hiểm trở, dốc hoang sơ, mây mù bao trùm
Những từ ngữ lẻ loi, khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút
Tưởng như vô dụng, nhưng lại khắc sâu trong lòng
Dốc cao vút, ngàn thước trùng điệp, bất ngờ
Nơi đây, dốc núi chồng chất, chạm trời gần xa
Bước lên chân dốc, lạc lõng bước sa chân
Không gian đây, dốc lên, dốc xuống
Mưa Pha Luông xa xôi, nhớ nhà làm sao dứt
Dốc cao vút, bước lên mây trắng
Nhớ nhà xa xôi, mưa rơi phủ kín
Chân trần bước dốc, tâm hồn dễ chịu
Ngọn dốc đứng thẳng, dốc vượt mây trắng
Quang Dũng không chỉ là nhà thơ: ông còn là một nghệ sĩ đa tài, biết vẽ tranh và sáng tác nhạc. Tài năng đa dạng của ông đã góp phần tạo ra những bức tranh ấn tượng về thiên nhiên miền Tây. Có người phê bình cho rằng, những bài thơ về dốc Tây Tiến của Quang Dũng là những tác phẩm xuất sắc, với họa đậm nét làm nổi bật cả bài thơ, ghi dấu ấn sâu trong lòng độc giả.
Bút pháp 'thi trung hữu họa' đã được thể hiện trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 3.
Trong văn chương, chúng ta thường nghe nói về 'thi trung hữu họa' (trong thơ có họa). Điều này làm thấy sự hòa quyện trong một tác phẩm thơ của hai loại nghệ thuật: thơ và họa. Quang Dũng là một trong những người tài năng có khả năng vẽ và thơ. Chất họa của ông hiện rõ trong bài thơ “Tây tiến”. Bài thơ đã tái hiện lại cảnh vật rừng núi Tây Bắc bằng con mắt của một họa sĩ.
Khi thơ và họa kết hợp trong một tác phẩm, chúng thấy sự gần gũi, kết hợp với nhau. Hai loại nghệ thuật này có thể kết hợp trong một tác phẩm và trở thành hai loại nghệ thuật chị em. Điều này bởi vì cả thơ và họa đều giàu hình ảnh, đường nét. Chất họa đã lan vào cách mô tả và cảm nhận của nhà thơ, tạo nên những bài thơ 'thi trung hữu họa'. Khi một bài thơ biểu lộ cảm xúc về họa, tạo ra sự hòa hợp giữa các yếu tố hình thành và phối hợp với nhau, ta đã gặp 'thi trung hữu họa' trong thơ.
“Tây Tiến” lâu nay được coi là một tác phẩm “thi trung hữu họa”. Bằng từ ngữ mô tả cảnh núi rừng, tác giả đã làm cho khung cảnh ấy như hiện ra trước mắt, với mỗi đường nét, chiều cao, chiều dài và chiều rộng, cùng với sự cảm nhận tinh tế. Bài thơ đã được nhiều họa sĩ sau này chuyển thể thành các tác phẩm hội họa xuất sắc.
Chất nghệ thuật hội họa trong bài thơ được thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Những câu vần xen lẫn với nhịp thơ đều tái hiện cảnh hành quân như một bức tranh. Ta thấy sự vất vả, nguy hiểm của chặng đường núi non cheo leo. Những người lính vừa leo lên đỉnh dốc cao đã phải đi xuống.
Trong câu thơ đầu “Dốc lên khúc khuỷu/dốc thăm thẳm”, tác giả đã dùng nhịp 4/3 và hai từ láy như bẻ gãy dòng thơ ra làm đôi gợi hình tượng về một con núi có hai sườn dốc vừa cao dựng đứng lại vừa sâu thăm thẳm. Hình ảnh “dốc lên khúc khuỷu” là cái nhìn hướng lên cao trong lúc người lính phải leo lên đỉnh núi. Lên tới đỉnh, cái dốc khúc khuỷu ấy lại trở thành cái dốc thăm thẳm, sâu hun hút trong việc tiếp tục hành quân xuống núi. Nếu từ “khúc khuỷu” vẽ ra những nét zíc zắc của con đường vượt núi và cho thấy sự vất vả thì “thăm thẳm” lại tả được con dốc vừa sâu vừa dài, ẩn dấu sau đó là cảm giác rờn rợn với những ai yếu bóng vía.
Ở câu thơ thứ hai, tác giả tái hiện một cảm xúc khác. Lên tới đỉnh núi, cái cảm giác về nơi mình đang đặt chân không còn là đá núi nữa mà trở thành “cồn mây”. Nó không phải là cái bồng bềnh sương khói lãng mạn mà là cái hoang vắng “heo hút”, lãnh lẽo. Từ láy “heo hút” được đảo lên trên để nhấn mạnh cảm xúc này. Tuy vậy, cái tài của Quang Dũng là luôn biết cân đối hình ảnh, cảm xúc thơ: nguy hiểm ở những câu thơ trên bao nhiêu thì câu dưới lại bình yên bấy nhiêu. Đối lập với sự khó khăn, lạnh lẽo của chặng đường vượt núi, của cồn mây lại là hình ảnh hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ “súng ngửi trời” vừa thực vừa gợi ra chất lính. Trong cái mệt nhọc, ta vẫn thấy nét tinh nghịch, hồn nhiên của họ. Chỉ bằng cụm từ này, chân dung người lính không bị chìm lấp đi trong cảnh mà chan hòa, ung dung thậm chí oai phong lẫm liệt giữa rừng núi.
Trong câu thứ ba, nhịp 4/3 như vẽ tiếp về hình ảnh một con dốc khác trên đường hành quân. Núi tiếp núi, đèo tiếp đèo. 2 vế tiểu đối trong câu thơ tạo nên sự cân đối hài hòa trong nét vẽ về cảnh dốc đèo. Chữ “ngàn thước” được điệp lại cụ thể hóa độ cao sâu thật hùng vĩ của đốc đèo. Các thanh trắc liên tiếp trong ba câu thơ diễn tả sự vất vả của người lính. Nó làm ta gợi nhớ tới những câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”: “Hình khe thế núi gần xa. Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao”. Phải là con người có con mắt hội họa thì tác giả mới chuyển tải điều này vào thơ!
Cảnh núi non nguy hiểm ấy như được kết thúc với nét vẽ bất ngờ ở câu thứ tư “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ là nét vẽ lãng mạn về y vẻ đẹp thơ mộng nơi núi rừng. Xa xa, giữa màn mưa giăng giăng như sương khói, nửa thực nửa mơ, ẩn hiện những căn nhà. Hiếm có cảnh nào trong mưa mà lại gợi được sự ấm áp bình yên như cảnh này! Câu thơ toàn thanh bằng, tương phản với ba câu trên như một tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính sau một chặng đường dài hành quân vất vả. Xuận Diệu ngày xưa cũng chỉ viết được ba câu thơ sử dụng thanh bằng mà ông thấy tâm đắc: “Sương nương theo trăng ngưng lưng trời. Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”. Còn Quang Dũng thì viết được rất nhiều câu như vậy, hơn nữa nó đặt ngay trong thế đối lập với những câu vần trắc. Tài hoa của tác giả là ở đó.
Từ việc tìm hiểu chất họa trong bài “Tây Tiến”, ta thấy thơ Quang Dũng thật đậm chất “thi trung hữu họa”. Có được điều đó là do bản thân tác giả cũng là một họa sĩ. Con người ông thật xứng đáng với hai chữ : đa tài. Nó tạo nên trong thơ Quang Dung vẻ đẹp hào hoa, phóng khoáng, đậm chất lãng mạn mà không nhà thơ nào có được. Cũng từ đó, ta hiểu thêm về thủ pháp « thi trung hữu họa » trong thơ ca. Bằng thủ pháp này, các nhà thơ đã vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ.Từ đó, gởi gắm tâm tình của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh.
Bút pháp thi trung hữu họa trong bài thơ Tây Tiến - Mẫu 4
Trong nền văn học Việt Nam, Quang Dũng là nhà thơ được biết đến với cái 'tôi' hào hoa, lãng mạn, qua những cảm nhận đầy tài hoa, tinh tế về vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người. Bài thơ 'Tây Tiến' là thi phẩm thể hiện rõ hồn thơ ấy. Một trong những đặc sắc của bài thơ là chất hội họa được thể hiện qua những hình ảnh và lớp ngôn từ có khả năng kiến tạo nên những đường nét, màu sắc về thiên nhiên cũng như con người, làm nên một tác phẩm 'thi trung hữu họa'.
'Thi trung hữu họa' là chất hội họa xuất hiện trong tác phẩm thi ca: 'trong thơ có nhạc'. Văn học vốn là loại hình nghệ thuật phản ánh hiện thực khách quan thông qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ, và đến với độc giả thông qua con đường đọc hiểu và sáng tạo; còn hội họa là lĩnh vực nghệ thuật sử dụng màu sắc, đường nét. Nếu văn học sử dụng chất liệu ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ thuật thì hội họa sử dụng những gam màu, những nét vẽ để kiến tạo nên những bức tranh. Mặc dù là những loại hình nghệ thuật riêng biệt nhưng giữa văn học và hội họa luôn có sự giao thoa, gặp gỡ bởi văn học có khả năng phản ánh hiện thực đời sống khách quan thông qua việc khúc xạ các hình ảnh có đường nét, hình khối bằng chất liệu ngôn từ, khiến cho những hình ảnh đó hiện lên chân thực, sinh động trong tiềm thức của độc giả.
Trong bài thơ 'Tây Tiến', yếu tố 'thi trung hữu họa' được thể hiện rõ qua bức tranh thiên nhiên và bức chân dung của người lính Tây Tiến. Qua những nét vẽ được tạo nên từ lớp ngôn từ hàm súc, đa nghĩa, thiên nhiên núi rừng miền Tây đã hiện lên với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, hiểm trở, vừa thơ mộng, trữ tình.
'Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'
Những con đường hành quân đã được tái hiện thông qua những nét vẽ 'khúc khuỷu', 'thăm thẳm', 'heo hút' gợi lên sự hiểm trở, gập ghềnh. Không gian đó còn được mở ra chiều cao của những dốc núi, chiều sâu 'Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống'. Lớp ngôn từ giàu tính tạo hình đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên mang đậm chất hội họa với vẻ đẹp hùng vĩ qua những con đường quanh co, những dốc núi cheo leo hiểm trở cùng những đỉnh đèo khuất sau làn sương của mây trời. Chất họa của bài thơ còn được thể hiện qua sự thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên tạo vật:
'Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa'
Những nét vẽ về 'chiều sương', 'hồn lau', 'người độc mộc', 'hoa đong đưa', đã tái hiện bức tranh thiên nhiên và con người miền Tây với vẻ đẹp mộc mạc, duyên dáng, thơ mộng và trữ tình. Những bông hoa lau lay động chập chờn trên 'nẻo bến bờ' cùng những cánh hoa 'đong đưa' theo dòng nước lũ khiến cảnh vật trở nên sinh động, gợi tả một vẻ đẹp hoang sơ và gợi cảm. Trên phông nền đó, hình ảnh 'dáng người trên độc mộc' xuất hiện như một nét vẽ chấm phá, tạo nên một nét vẽ khỏe khoắn và rắn rỏi. Như vậy, bức tranh thiên nhiên với những đường nét thơ mộng đã tạo nên vẻ đẹp trữ tình, lãng mạn cho thi phẩm.
Chất 'họa' của bài thơ còn được thể hiện thông qua bức chân dung người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng:
'Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm'
Hình ảnh người lính Tây Tiến đã được tái hiện thành công bằng những nét vẽ mang cảm hứng lãng mạn và cảm xúc bi tráng. Những chi tiết rất thực như 'không mọc tóc', 'xanh màu lá', 'dữ oai hùm', 'mắt trừng' đã gợi lên một bức chân dung vừa khái quát vừa cụ thể và có những nét riêng biệt của người lính với vẻ ngang tàn. Tuy nhiên, ẩn sau những nét vẽ tưởng chừng như rất dữ dội đó là tâm hồn giàu tình cảm và rất mực lãng mạn. Mặc dù luôn đối mặt với những hiểm nguy nhưng họ vẫn 'gửi mộng qua biên giới', hằng đêm mơ và nhớ về bóng dáng thanh lịch của người thiếu nữ Hà thành kiều diễm. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là vẻ đẹp bi tráng thông qua thái độ của họ khi đối diện với cái chết:
'Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành'
Dù có những khoảnh khắc mơ mộng về hình dáng cô gái, nhưng trên chiến trường, người lính sẵn sàng hy sinh tất cả để thực hiện ý nguyện. Bằng cách diễn đạt 'áo bào thay chiếu, anh về đất', tác giả diễn đạt về sự chết ở trận địa, biểu hiện rõ ý thức về sự đau đớn, nhưng thông qua những nét vẽ đầy kiêu hùng: 'Sông Mã gầm lên khúc độc hành', Quang Dũng đã thành công trong việc tái hiện bức chân dung của người lính với vẻ đẹp anh dũng.
Qua những gì đã phân tích, chúng ta thấy rằng bài thơ 'Tây Tiến' hoàn toàn xứng đáng với đặc điểm của 'thi trung hữu họa'. Với tài năng của mình, tác giả đã tạo ra một tác phẩm mang đậm chất hội họa thông qua các biện pháp nghệ thuật như bút pháp miêu tả từ khái quát đến cụ thể, thủ pháp tương phản đối lập,... để thành công trong việc tái hiện bức tranh về thiên nhiên núi rừng miền Tây và vẻ đẹp của những người lính dũng cảm, hy sinh cho tự do của dân tộc.