Chỉ số thanh toán bao gồm các tiêu chí thể hiện khả năng thanh toán lãi vay và nợ đến hạn của doanh nghiệp (cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Chỉ số này thường được dùng để đánh giá sự lành mạnh tài chính của doanh nghiệp trong việc trả nợ. Vậy các chỉ tiêu này được xác định như thế nào và ý nghĩa của chúng đối với doanh nghiệp là gì? Nhà đầu tư cần lưu ý gì khi phân tích các chỉ số này?
Nhóm các chỉ số thanh toán
Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành (Current Ratio - CR) đo lường khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn từ tài sản ngắn hạn của công ty. Để đảm bảo khả năng thanh toán, chỉ số này phải lớn hơn 1, nếu nhỏ hơn 1, doanh nghiệp có thể gặp rủi ro mất khả năng thanh toán. Tùy ngành nghề, nếu hệ số này khoảng 1-2 lần thì doanh nghiệp có thanh khoản tốt. Chỉ tiêu này có thể được tính từ thông tin trên bảng cân đối kế toán.
Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản ngắn hạn / Nợ ngắn hạn (1)
Ví dụ: Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành của các công ty X, Y, Z giai đoạn 2016 - 2021
Nguồn: Dữ liệu từ trang web Master Trade
Nhà đầu tư có thể thấy sự khác biệt trong chỉ số khả năng thanh toán hiện hành của ba công ty X, Y, Z. Công ty Z có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn rất tốt (CR duy trì rất cao), trong khi công ty Y từ năm 2016 đến 2020 bị mất cân đối khả năng thanh toán khi chỉ tiêu này luôn nhỏ hơn 1. Đối với công ty X, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn duy trì ổn định, cao hơn 1.
Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Acid Test Ratio) là chỉ tiêu phản ánh khả năng công ty thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn dựa trên các tài sản có khả năng thanh khoản cao (chuyển đổi nhanh thành tiền). Chỉ tiêu này đánh giá khả năng thanh lý nhanh các tài sản để trả nợ ngắn hạn. Chỉ số này không nhất thiết phải lớn hơn 1, nhưng nếu lớn hơn 1 thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp rất tốt. Để xác định chỉ số này, cần loại bỏ giá trị hàng tồn kho ròng khỏi tài sản ngắn hạn.
Chỉ số khả năng thanh toán nhanh = (Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho ròng) / Nợ ngắn hạn (2)
Ví dụ: Chỉ số khả năng thanh toán nhanh của các công ty X, Y, Z từ năm 2016 đến 2021
Nguồn: Dữ liệu từ trang web Master Trade
Dựa vào biểu đồ, nhà đầu tư có thể thấy sự khác biệt về chỉ số khả năng thanh toán nhanh giữa ba công ty so với chỉ số khả năng thanh toán hiện hành. Công ty Y có chỉ số này có vẻ 'tốt hơn' so với công ty X và Z. Trong giai đoạn 2016 - 2021, chỉ số của công ty Z khá thấp.
Ngoài hai chỉ tiêu phổ biến để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhà đầu tư có thể sử dụng thêm một số chỉ tiêu khác như: Tỷ lệ đảm bảo lãi vay, Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn từ lưu chuyển tiền tệ ròng từ hoạt động kinh doanh, khả năng trả nợ ngắn hạn và lãi vay từ lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA).
Tỷ lệ đảm bảo lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) / Chi phí lãi vay (3)
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn từ lưu chuyển tiền tệ ròng từ hoạt động kinh doanh = Lưu chuyển tiền tệ ròng từ hoạt động kinh doanh / Nợ ngắn hạn (4)
Khả năng trả nợ ngắn hạn và lãi vay từ lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao = EBITDA / (Nợ ngắn hạn + Lãi vay) (5)
Các chỉ số về khả năng thanh toán của doanh nghiệp có thể được tìm thấy ở đâu?
Các chỉ số về khả năng thanh toán thường không được hiển thị trực tiếp trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Nhà đầu tư có thể sử dụng các công thức đã nêu để tính toán các chỉ tiêu này. Hiện nay khi tham gia đầu tư trên thị trường, nhà đầu tư tại công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt có thể xem và phân tích các chỉ tiêu này trên nền tảng giao dịch Master Trade hoặc các nền tảng tài chính khác.
Nhà đầu tư 'nhìn thấy' được những gì qua các chỉ số về khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp với chỉ số khả năng thanh toán cao thể hiện sự mạnh mẽ về tài chính, đảm bảo trả nợ và lãi suất đúng hạn. Ngược lại, chỉ số thấp cho thấy những khó khăn trong việc thanh toán nợ.
Việc duy trì chỉ số thanh toán quá cao cũng cho thấy công ty phải hy sinh cơ hội sinh lời cao vì sở hữu quá nhiều tài sản ngắn hạn sinh lời thấp.
Nhà đầu tư cần chú ý nếu tài sản ngắn hạn và khoản phải thu ngắn hạn của công ty cao qua nhiều báo cáo liên tục hoặc có sự dịch chuyển từ hàng tồn kho sang khoản phải thu. Họ phải cẩn thận vì khả năng cao các tài sản này khó chuyển thành tiền mặc dù chỉ số khả năng thanh toán vẫn tốt.