Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân nổi tiếng với triết lý thẩm mỹ cao, tôn trọng vẻ đẹp, khám phá điều kỳ bí và tạo dựng những nhân vật phong cách, sáng tạo. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông được thể hiện qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây là một tác phẩm ngắn tinh tế về nội dung và nghệ thuật, trong đó cảnh về chữ “lạ chưa từng thấy” diễn ra trong buồng giam tối tăm mang ý nghĩa sâu sắc về sức mạnh của vẻ đẹp trước sự xấu xa, ác độc.
Trong một không khí khói mù mịt, ánh sáng đỏ của đuốc đốt rọi sáng ba cái đầu đang cúi mình trên một tấm vải trắng phơi phóng nằm trên một miếng gỗ. Khói cháy làm đau mắt. Một người tù với gông cổ, chân bị xiềng cài, đang chăm chú viết chữ trên mảnh vải trắng căng trên một tấm gỗ. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục khẽ nhấc lên để đánh dấu ô chữ trên mảnh vải. Và người thầy thơ gầy gò đứng đối diện, cầm bút sáng viết tiếp…”.
Miêu tả đoạn văn đầy tinh tế về hình ảnh và cảm giác sinh động đã làm rõ thêm sự tài năng của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc; đồng thời, cũng nhấn mạnh về sự phong phú, chính xác trong kiến thức lịch sử, văn hoá, xã hội..., khả năng quan sát sắc bén và trí tưởng tượng mạnh mẽ và sáng tạo của tác giả Vang bóng một thời. Miêu tả cảnh người tử tù viết thư pháp trong tù mịt mù và đầy uy nghiêm khiến ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục và thơ trở nên lãng mạn và cao quý hơn, tạo ra những hình ảnh hùng vĩ và đặc biệt - xây dựng nên những con người vĩ đại nhưng đôi khi phải chịu sự hủy hoại của xã hội, điều này cũng là một đặc điểm nổi bật của phong cách lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa đựng đầy những ước mơ sâu sắc của Nguyễn, gợi mở trí tưởng tượng của người đọc, cũng nhờ ba nhân vật, mỗi người ở một vị trí xã hội khác nhau nhưng lại có khả năng bổ sung đặc điểm cho nhau, đều là những phần của tâm hồn tác giả: tam vị nhân vật, một trong những điều gì? Nguyễn Tuân. Phong cách viết truyện ngắn sắc bén của Nguyễn đã tạo nên nhóm tượng đài Thiên lương - Tam vị nhất thể này dường như muốn tạo ra một sự so sánh với thực tại xã hội thực dân phong kiến tối tăm đang tồn tại trước mắt tác giả. Thực tế, xã hội đó đã được Nguyễn Tuân lịch sử hóa, biến thành “Sơn Hưng Tuyên” thông qua bối cảnh câu chuyện mà ông Huấn sáng tác; đó là một xã hội 'hỗn loạn xô bồ' với những kẻ 'vô trách nhiệm', những 'lũ vô lại' sống bằng tàn bạo, lừa dối: Đối với kẻ yếu đuối thất bại thì sẵn sàng bạo lực 'đánh cho chúng mấy phát' - 'Ở đây, khó giữ được thiên lương'... Khi viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang trải qua mùi vị xã hội đó - một trải nghiệm tương đối kỹ lưỡng, tất nhiên chưa đến mức “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới cái chết như ông Huấn, nhưng đã từng trải qua những ngày tù đày đắng cay (khoảng 1929 - 1930): 'những trái tim đó (của những tù nhân - V.T) đôi khi lên tiếng một cách hung hăng và tàn ác. Những cuộc xung đột giữa tù nhân và tù nhân trong bữa cơm mắm nhà nước cung cấp, thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã làm đỏ mắt những bát cơm đỏ bị những tay vụn máu đấm vào. Những bữa ăn cá thối trong một không khí kinh hoàng như vậy...” (Một chuyến đi). Có thể nói nguồn gốc của nhân vật Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học tại Sơn Tây cách đây hàng trăm năm; nhưng nguồn gốc của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (thời kỳ Thuận Trị, Tự Đức) lại là hoàn cảnh xã hội Việt Nam hiện tại của Nguyễn Tuân. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để 'nói về quá khứ bằng hiện tại' là một dụng ý rõ ràng của tác giả. Niềm tự hào, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau khổ: Thân phận không phải là hệ quả của bản chất - tinh thần dân tộc sâu sắc của nhà văn Nguyễn Tuân chủ yếu nằm ở đây. Một biểu hiện khác của tinh thần dân tộc trong Chữ người tử tù là sự tiếc thương của một tín đồ văn hóa truyền thống đang bị suy tàn trong xã hội thời hiện đại: Thưởng ngoạn thư pháp. Bởi vì chữ Nho là biểu tượng văn hóa tượng trưng, nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng), nét bút lông mềm mại lại dễ dàng bộc lộ cá nhân và nhân cách...; viết chữ Nho không chỉ là hành động kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhiều khi trở thành một hành động nghệ thuật thực sự: sáng tạo thư pháp (thư pháp có thể tồn tại một mình, hoặc kết hợp với nghệ thuật tạo hình: xuất hiện trên bức tranh nước…). Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hòa quyện với truyền thống văn hóa phương Đông đã đam mê thư pháp, và cũng tạo ra không ít nét chữ vừa 'như phượng múa rồng bay', vừa thể hiện nhân phẩm. Một trong những danh sĩ Bắc Hà về thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 - 1855) với văn chương 'vô tiên Hán' và nhân cách: 'Một đời chỉ cúi trước hoa mai' (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa')... Xây dựng một tinh thần biết ấm áp sự mong đợi: “Có được chữ của ông Huấn mà treo, là có một kho báu trên thế giới”, cũng như biết giữ gìn sự tôn trọng tuyệt đối trước thiên lương và thư pháp xuất sắc của người tử tù: 'Người tù viết xong một chữ, quản ngục lại nhanh chóng vạch những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên tờ lụa sáng bóng'...; Nguyễn Tuân như đã nâng cao tiếng vọng đối với một phần của văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại 'vẫn còn sống' (nhiều sinh hoạt văn hóa cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Khúc ca đó vang lên trong tâm trí với âm điệu của sự oán giận đối với 'Tây Tầu hỗn loạn' đã phạm tội với văn hóa Việt. Về nguyên nhân của sự gắn bó mật thiết của Nguyễn Tuân với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở nguồn gốc gia đình, cũng như ở đời sống hàng ngày của Nguyễn - một con người tài năng và thông thái, sống hòa mình với văn hóa dân gian Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian: chèo, tuồng; nghệ thuật tạo hình dân gian; dân ca: đào nương ca, trong đó có hát ca trù…).
Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc lòng tiếng mẹ đẻ, trong đó có những từ cổ đã giúp tái hiện một cách rõ ràng – lịch sử, hội hoạ điêu khắc và điện ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.
Dĩ nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ nằm ở việc sử dụng từ ngữ phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn Nguyễn Tuân có đủ điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ: Tác giả Chữ người tử tù đã sử dụng từ “ngấc”, nhưng sách phụ lục văn 12 đã in nhầm là: “Viên quan coi ngục ngóc đầu”; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về âm nhưng ý nghĩa khác biệt, và về phương diện gây ngữ cảm thì càng khác biệt: Ngóc đầu là dựng thẳng dậy, gây ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), trong khi đó ngấc đầu là nhấc đầu nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm thương tâm (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các điều kiện cần thiết cho một người viết văn ấy, một phần do bẩm sinh của Nguyễn ; phần còn lại là kết quả của việc học hỏi nghiêm túc và sâu sắc, bắt nguồn từ sự kết nối mạnh mẽ với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cần phải là thư gửi cho vợ, bất kể điều gì viết ra giấy,in ra chữ, Tuân đều cẩn thận, ít nhất cũng là cẩn thận hơn so với những nhà văn, nhà thơ khác (…). Thực ra tôi chưa thấy bản thảo nào sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số anh em khác viết trên những tờ giấy rẻ tiền, cắt xén khác nhau, từ to đến nhỏ, bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy cao cấp, cắt xén đều đặn, kỹ lưỡng và không bao giờ quên đóng dấu in một chiếc buồm màu xanh 'Gió đã lên', và thường kết thúc bài viết bằng việc kí một chữ bay bướm và đóng một chiếc dấu son đỏ trên màu xanh sen. Sau này có nhiều người bắt chước lối chơi lập dị đó để bây giờ chuyện đó trở nên phổ biến, nhưng nếu tôi nhớ không nhầm thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản thảo và sách vở. Ngay cả cách anh viết chữ cũng phức tạp. Anh viết như nhà nho viết câu đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn trọng của Nguyễn Tuân đối với tiếng dân tộc; đồng thời… than ôi! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn đóng góp, hoặc cũng có thể… xin chữ của ông Huấn Cao!
Không phải ngẫu nhiên, mà chính cái tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hợp tác cùng nhau tạo ra Chữ người tủ tù – một trong những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.