Đề bài: Từ văn bản Tuyên ngôn Độc lập đã học, hãy phân tích lập luận chặt chẽ, tinh thần dân tộc được thể hiện qua văn kiện lịch sử này.
1. Dàn ý
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
7. Bài mẫu số 6
8. Bài mẫu số 7
Phân tích chân thực Bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
I. Dàn ý Phân tích Bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Khai mạc
- Tổng quan và tóm tắt về Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
- Giới thiệu về tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập”: Được coi là một trong những tác phẩm văn hóa lớn của dân tộc; đã mở ra thời đại mới cho quốc gia ta – thời đại của Độc lập, Tự do, và Quyết định của nhân dân trong việc quản lý quốc gia và định đoạt tương lai của mình.
>> Hãy tham khảo cách mở bài Tuyên ngôn Độc lập một cách sáng tạo hơn nhé!
2. Phần chính
a. Nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn
Cơ sở pháp lý và tính chính nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập đã kiên quyết khẳng định những quyền bất khả xâm phạm như quyền bình đẳng, quyền tự do, và quyền tìm kiếm hạnh phúc của con người. Đây là những quyền không thể chấm phạm; mọi người đều sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi.
– Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng và ý nghĩa từ 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp:
+ Trước hết, để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là những ý tưởng lớn và cao cả của thời đại
+ Sau đó, là việc “mở rộng ra…” nhằm đẩy cao lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền hạnh phúc và quyền tự do của tất cả các dân tộc trên thế giới
=> Thông qua đây, đã tôn vinh những giá trị rõ ràng của tư tưởng nhân loại và đặt nền tảng cho luận điệu sẽ được trình bày ở mệnh đề tiếp theo.
– Ý nghĩa của việc trích dẫn hai câu trong hai bản Tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ:
+ Có tính chiến thuật sắc bén, tài năng, và làm im lặng đối phương.
+ Dường như, khẳng định vị thế đầy tự hào của dân tộc (qua 3 Cuộc Cách mạng, 3 Nền Độc lập, và 3 Bản Tuyên ngôn ngang bằng nhau.)
=> Sự áp dụng của Bác rất khéo léo và đầy sáng tạo.
Với cách bắt đầu tác phẩm đặc sắc và chặt chẽ: Bắt đầu từ việc công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại, đi đến việc khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khao khát của mọi dân tộc.
Câu văn như một tuyên bố mạnh mẽ và xác đáng “Đó chính là những sự thật không ai có thể phủ nhận” là sự khẳng định mạnh mẽ về chân lý của thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của mọi dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
=> Có thể xem đây là đóng góp đặc biệt của tác giả và cả cộng đồng Việt Nam vào một trong những ý tưởng cao quý, vừa mang tầm cỡ quốc tế, vừa mang giá trị nhân đạo cao cả.
Bản Tuyên ngôn mở đầu rất ấn tượng, phản ánh sự hùng hồn và trang nghiêm. Người không chỉ gửi thông điệp đến nhân dân Việt Nam mà còn chia sẻ với thế giới. Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Người trích dẫn như vậy để thu hút sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia ủng hộ trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn kế hoạch tái chiếm Đông Dương của Pháp và Đế quốc Nhật, những kẻ thực dân xâm lược, đầy tham vọng.
* Tóm lại: Với lời nói sắc sảo, mạnh mẽ và hùng hồn, Người đã đặt nền tảng pháp lý cho bản Tuyên ngôn, nâng cao giá trị chính trị của chúng ta. Người đặt ra vấn đề quan trọng là độc lập của dân tộc.
b. Cơ sở thực tiễn của Tuyên ngôn
* Cáo buộc tội ác của thực dân Pháp:
– Phơi bày hình ảnh đen tối của thực dân Pháp, họ 'lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, và nhân ái để xâm chiếm đất nước ta, áp bức nhân dân ta'.
– Năm tội ác về chính trị:
1- tước đoạt tự do dân chủ,
2- luật pháp dã man, thực hiện chính sách chia rẽ để thống trị,
3- giết những người anh hùng yêu nước của dân ta,
4- giam hãm dư luận và thực hiện chính sách đối với những người dân ngây thơ,
5- lan truyền chất độc hại như rượu và ma túy.
– Năm tội ác kinh tế nặng nề:
1- lấy trộm, cướp bóc,
2- độc quyền in tiền, kiểm soát cảng ra vào,
3- thu thuế trên tài sản gian trá, gây nghèo đói cho nhân dân,
4- áp đặt kiểm soát doanh nhân, bóc lột công nhân tàn nhẫn,
5- gây thảm kịch khiến hơn 2 triệu đồng bào thiệt mạng đói năm 1945.
=> Sử dụng phương pháp liệt kê; câu văn ngắn dài, từ ngữ mạnh mẽ, biểu đạt phong cách, cấu trúc ngôn ngữ sắc sảo; hình ảnh sinh động, giọng văn hùng hồn.
– Trong giai đoạn 5 năm (1940 – 1945), thực dân Pháp đã đổ bộ và 'bán nước hai lần cho Nhật'.
– Hành động tàn ác của họ với Việt Minh; 'thậm chí khi rút lui, chúng còn tàn nhẫn giết hại đám tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng'.
=> Phán quyết đầy tức giận, nuốt ngựa, sôi sục thù hận:
+ Phơi bày sự nhục nhã của Pháp (sự đầu hàng, bỏ chạy…)
+ Kết án mạnh mẽ tội ác không tưởng (từ đó, … từ đó…)
Đó là lời kết án mạnh mẽ với sứ mệnh tàn bạo của thực dân Pháp đối với quê hương ngay cả sau một thế kỷ.
* Hành trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta:
– Từ mùa thu năm 1940, đất nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành lại quyền lực khi Nhật làm Đồng minh.
– Nhân dân ta đã lật đổ những kẽ nát của thực dân và chế độ quân chủ, khởi nguồn chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp bỏ chạy, Nhật rút lui, vua Bảo Đại thoái vị.
– Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta đã chấm dứt và xoá sổ :(loại bỏ hết, xóa đi…) mọi đặc quyền, đặc lợi của chúng đối với đất nước ta.
– Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “nhất định phải công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”:
“Một dân tộc đã dũng cảm …đã đạt được sự tự do. Dân tộc đó phải được tự do”
=> Phần thứ hai là bằng chứng lịch sử không thể chối cãi, là nền tảng thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập, mà Hồ Chí Minh đã phân tích một cách chặt chẽ với lý lẽ mạnh mẽ, hùng hồn: lối biện luận chặt chẽ, logic, ngôn ngữ sắc sảo, cấu trúc đặc sắc, nhịp điệu đầy mạch lạc, văn phong linh hoạt theo hệ thống liên kết …
c. Tuyên bố với Thế giới
– Xác nhận quyền tự do và độc lập của Việt Nam, thực tế đã biến ước mơ thành hiện thực (từ khao khát đến sự thực hiện rõ ràng).
– Nhân dân đã quyết tâm bảo vệ quyền tự do, độc lập đó (bằng cách hy sinh máu và lòng yêu nước).
=> “Tuyên ngôn độc lập” là một tư liệu lịch sử quý báu của dân tộc, thể hiện phong cách chính trị của Hồ Chí Minh.
3. Kết luận
– Bản Tuyên ngôn Độc lập là sự phát triển và kế thừa những văn bản “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc.
– Đại diện cho những giá trị vô song, là kết quả của sự học thức và lòng nhân ái của người viết.
– Bản Tuyên ngôn Độc lập là bản ca anh hùng của thời kỳ Hồ Chí Minh.
>> Tham khảo thêm một số cách viết phần Kết bài Tuyên ngôn độc lập
II. Bài văn mẫu Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 1:
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, một nhân vật văn hóa quốc tế, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng mọi người. Bác là nguồn cảm hứng cho nền văn hóa Việt, với những tác phẩm vô song. Trong đó, bản Tuyên ngôn độc lập nổi bật.
Tác phẩm được viết vào ngày 26 tháng 8 năm 1945 tại địa chỉ 48 Hàng Ngang. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Bác đọc tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn có cấu trúc gồm ba phần: cơ sở pháp lý - cơ sở thực tế - khẳng định.
Bắt đầu bằng việc trích dẫn những câu văn đặc sắc từ 'tuyên ngôn độc lập Mỹ' và 'tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền' của Pháp, bản tuyên ngôn mở đầu tôn vinh những giá trị về tự do, sống, và bình đẳng của con người. Tác giả tôn trọng và ca ngợi những từ ngữ trong hai tác phẩm này, khẳng định: 'đó là những lẽ phải không ai chối cãi được'. Bản tuyên ngôn như một kết quả của cuộc cách mạng tháng Tám, phản ánh tinh thần nhân văn của nhân loại. Nhà văn tôn vinh quyền con người và nâng cao quyền của cả dân tộc từ quyền cá nhân. Tầm nhìn sâu rộng của tác giả thể hiện qua lời khẳng định: 'Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do'. Trích dẫn hai văn bản này không chỉ có tác dụng tố cáo tội ác của kẻ thù mà còn đặt tuyên ngôn của Việt Nam lên tầm cao với tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc. Kết thúc phần mở đầu là câu khẳng định mạnh mẽ: 'Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được'.
Bài văn Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
Cơ sở thực tế của bản tuyên ngôn là những tội ác của thực dân và tư tưởng chính nghĩa của Việt Nam. Để tố cáo bộ mặt đen tối của thực dân Pháp, tác giả sử dụng một câu văn có sức mạnh khẳng định và phủ định: 'thế mà hơn 80 năm nay'. Tác giả lật ngược vấn đề, vạch trần sự xảo trá của thực dân Pháp và tấn công mạnh mẽ. Tội ác của thực dân Pháp được tiết lộ qua nhiều khía cạnh: chính trị-văn hóa và kinh tế. 'Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành luật pháp dã man, tạo ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc, chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học, chúng chặt chém những người yêu nước. Chúng nát tình dân ta trong những cuộc khởi nghĩa, thi hành chính sách ngu dân, sử dụng rượu cồn và thuốc phiện để làm suy nhược nòi giống ta. Thực dân Pháp có lời nói về An Nam nhưng lại hành động ngược lại, phản đối tự do, bình đẳng, và nhân ái. Tất cả những tội ác này chỉ là minh chứng cho sự bất nhân bằng và lừa dối của chúng. Về mặt kinh tế, chúng cướp đất của dân ta, khai thác mỏ và nguyên liệu. Chúng kiểm soát độc quyền in giấy bạc, xuất nhập khẩu.
Chúng áp đặt hàng trăm loại thuế không lý, khiến dân ta, đặc biệt là dân cày và dân buôn, trở nên nghèo đói. Chúng không cho nhà tư sản ta phát triển, bóc lột công nhân ta một cách tàn nhẫn. Để làm nổi bật tội ác chồng chất của chúng, tác giả sử dụng kỹ thuật liệt kê kết hợp cấu trúc câu phức. Lời văn đanh thép của tác giả thể hiện sự căm hận, khiến độc giả và người nghe đầy lòng căm thù. Đặc biệt là hình ảnh 'tắm trong máu của cuộc khởi nghĩa của ta'. Hình ảnh này gợi lên những cảm xúc mạnh mẽ. Tuy nhiên, tội ác của chúng chưa dừng lại ở đó. Trong vòng năm năm, chúng bán đất nước của chúng ta hai lần cho Nhật. Mùa thu năm 1940, khi Nhật xâm chiếm, Pháp đã 'đầu hàng quì gối'. Từ đó, nhân dân ta phải chịu hai lớp xiềng xích từ Pháp và Nhật, khiến hơn hai triệu người chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Chúng còn đàn áp, tàn bạo Việt Minh ta. Tội ác của chúng khiến dân ta gặp phải những đau thương không tưởng.
2. Đánh giá bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 2:
Mùa thu năm 1945, khắp đất nước chúng ta rực rỡ trong niềm vui phấn khởi. Cách mạng tháng Tám thành công đã gỡ bỏ khỏi vai nhân dân Việt Nam những chuỗi xiềng xích nô lệ và áp bức, hướng dẫn họ vượt qua cánh cửa tối tăm bước vào thế giới tự do và độc lập. Ngày 2/9, trong một buổi sáng trời trong xanh với ánh nắng vàng ấm áp, trước triệu người trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh một Việt Nam mới, một quốc gia tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn được Người sáng tác trong tâm trạng hân hoan nhất. Bằng tâm hồn và trí tuệ, bằng những xúc cảm mãnh liệt, Người đã truyền đạt đến trái tim hàng triệu người những rung động sâu sắc và thấm thiết, đồng thời tuyên bố mạnh mẽ với thế giới về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của quốc gia ta.
Toàn văn bản tuyên ngôn không quá dài, chỉ gói gọn trong khoảng một nghìn từ nhưng cực kỳ chặt chẽ và súc tích. Bản Tuyên ngôn được chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần truyền đạt một ý, liền mạch với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ và mạch lạc. Phần đầu của bản Tuyên ngôn đề cập đến những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả trích dẫn lời hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, bản “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp đã để lại ấn tượng sâu sắc. Bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ được sáng tạo sau khi nước Mỹ đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh cho độc lập.
Thay mặt Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập tại địa chỉ số 48 phố Hàng Ngang
3. Đánh giá Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 3:
Trong số các tác phẩm của Bác, Tuyên ngôn Độc lập nổi bật như một kiệt tác của dân tộc. Với ngôn ngữ hùng vĩ và lập luận sắc bén, tác phẩm là kết quả của máu chảy và tính mệnh hi sinh của anh hùng Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập là hiện thân của sự hy sinh và đoàn kết của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên).
Tuyên ngôn Độc lập mở đầu bằng việc nêu rõ vấn đề và sử dụng những lẽ phải không thể phủ nhận. Bác kết hợp hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ để làm nổi bật tính phổ quát của những lẽ phải đó. Ngoài ra, Bác còn nêu rõ quyền dân tộc, mở đường cho trào lưu giải phóng dân tộc trên thế giới.
Bác sử dụng lý lẽ của kẻ thù để kết án thực dân Pháp. Bằng những dẫn chứng cụ thể, Bác vạch mặt tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam. Lập luận đanh thép và hình ảnh mạnh mẽ làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp.
Kinh tế là một góc nhìn, Bác nổi án thực dân Pháp từ tình trạng tổng quát đến những bi kịch cụ thể: “Chúng tận hưởng cảm giác giàu có… xóa đi”. Bác chú ý đến nhóm người như: “dân nông và thương nhân đều trở nên nghèo đói”, “họ không để doanh nhân ta phát triển”. Bằng cách này, Bác muốn thu hút sự ủng hộ của cả xã hội đoàn kết trong cuộc chiến bảo vệ Độc lập. Toàn bộ đoạn văn chỉ sử dụng một từ “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng mỗi lần mô tả thì vị ngữ luôn thay đổi: “thực hiện”, “sáng tạo”, “thẳng tay hành quyết”, “tắm” chỉ một phe thù là thực dân Pháp nhưng tội ác của chúng trải dài trên đất nước ta. Cách diễn đạt mạnh mẽ kết hợp với những chứng cứ cụ thể khiến đối tượng trở nên không thể tránh khỏi tội ác.
Tội ác nặng nề nhất của thực dân Pháp là thảm họa đói năm 1945: “Mùa thu năm 1940, quân Nhật xâm lược Đông Dương để mở thêm căn cứ chống đồng minh thì thực dân Pháp đầu hàng, mở cửa nước ta cho Nhật đến. Từ đó, nhân dân ta bị kẹt giữa hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Kết quả là cuối năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu người dân Việt Nam chết đói.”
Hướng dẫn phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh
Tác giả cũng không bỏ sót những tội ác khác của bọn thực dân Pháp như “trong năm năm chúng bán… cho Nhật”, tội hành quyết tàn bạo Việt Minh hơn nữa, tội “giết số lượng lớn tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.”
Người kết án thực dân Pháp một cách hùng vĩ và đanh thép như vậy để làm rõ bản chất tàn ác, dã man của thực dân Pháp, lật mặt “khai hoá', “bảo hộ” của chúng trước toàn thế giới, làm phơi bày lòng căm thù của nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp.
Tác giả tôn vinh sức mạnh toàn dân trong cuộc chiến chống thực dân phong kiến và đoạt lại Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng… chế độ dân chủ cộng hoà”. Chỉ với 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác khắc sâu vào lịch sử đầy sóng gió và hùng tráng của dân tộc. Khen ngợi truyền thống kiên trì của dân tộc, tác giả kích thích tinh thần tự hào dân tộc, thúc đẩy ý chí chiến đấu để nhân dân Việt Nam kiên quyết chống lại kế hoạch của thực dân Pháp.
Tiếp theo, Người mô tả lý do cơ bản cho sự hình thành của quốc gia Việt Nam mới. Việt Minh, tổ chức cách mạng đại diện cho toàn bộ cộng đồng Việt Nam, đã đồng lòng với đồng minh để chống lại thực dân Pháp và quân phiến quân Nhật, chiếm độc lập từ tay Nhật. Hai lần, Người nhấn mạnh ý nghĩa của Độc lập quốc gia bằng những từ ngữ mạnh mẽ: “Thật sự, ...”. Trên cơ sở đó, Người công bố việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tuyên bố chấm dứt mọi liên kết với thực dân Pháp, và xóa bỏ chúng khỏi lãnh thổ Việt Nam...
Cuối cùng, thay mặt cho toàn bộ cộng đồng mới giành được tự do độc lập, Người đặt ra lời thề “tận dụng tất cả tinh thần, sức mạnh, tính mạng và tài sản để bảo vệ quyền tự do và độc lập đó” - Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Với lòng tận tụy và tài năng đặc biệt, Người thể hiện sức mạnh của một dân tộc đang nổi dậy chống lại chế độ thực dân, và giành được độc lập tự do cho quê hương. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế như một quốc gia tự do và độc lập, và cả thế giới cũng chứng kiến sự quyết tâm bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên là một tài liệu lịch sử quan trọng nhất của đất nước. Nó đánh dấu sự hy sinh của hàng nghìn đồng bào, đồng chí trong suốt 80 năm chiến đấu chống lại Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một bước ngoặt lịch sử, đánh dấu kết thúc giai đoạn mất mát, giai đoạn mà nhân dân sống dưới bóng tối của thực dân và làm nô lệ cho dân tộc. Nó mở ra một thời đại mới: thời đại của độc lập tự do.
""""---HẾT BÀI 3"""""-
Việt Bắc là một bài học quan trọng trong Tuần 8 của chương trình Ngữ Văn lớp 12, nơi học sinh được yêu cầu tự chuẩn bị cho bài học bằng cách nắm vững nội dung và trả lời các câu hỏi trong sách giáo trình.
4. Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 4:
“Tuyên ngôn độc lập” là một tác phẩm lịch sử có giá trị lớn do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác. Đây là bản tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam và mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ của độc lập tự do.
“Tuyên ngôn độc lập” ra đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt. Nó xuất hiện khi chính quyền cách mạng mới thành lập phải đối mặt với nhiều thách thức, với thế lực phản động hợp tác để cướp đi những thành tựu chúng ta đã đạt được. Mặc dù vậy, tuyên ngôn vẫn ra đời và có ý nghĩa lịch sử lớn đối với dân tộc ta.
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Bác Hồ trích dẫn một đoạn tuyên ngôn của nước Mỹ để làm cơ sở pháp lý, một nguyên tắc quan trọng nhất làm tiền đề cho toàn bộ tư duy tác phẩm: từ quyền bình đẳng của con người, Người phát triển thành quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Đây là một sáng tạo đầy tinh thần, trí tuệ và sự khéo léo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là kết quả của tư duy lý luận sắc bén và sáng tạo, là đóng góp quan trọng và tận tụy của Người. Nó không chỉ có ý nghĩa thực tế đối với cách mạng Việt Nam mà còn đặc biệt quan trọng đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Ngoài ra, Người cũng trích dẫn tuyên ngôn của Pháp, tóm gọn tinh thần và ý nghĩa của tuyên ngôn Pháp, đề cao quyền tự do và bình đẳng của con người - những quyền cơ bản không ai có thể phủ nhận và được thừa nhận như là một sự thật.
Tuyên bố tự do viết tay của Hồ Chí Minh
Bằng cách sử dụng hai tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại và hai cường quốc lớn trên thế giới có âm mưu thôn tính quốc gia ta, Bác muốn tăng tính thuyết phục của bản tuyên ngôn độc lập quốc gia. Mặt khác, thể hiện sự khéo léo và trí tuệ của người viết. Bác đồng thời đề cao truyền thống bình đẳng, tự do, nhân đạo, tinh thần tự do tiến bộ của nhân dân hai nước Mỹ và Pháp, vừa có tác dụng ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng. Đó là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”. Người sử dụng những lý luận sắc bén, lời văn ngắn gọn, súc tích để giọng văn trở nên sống động và hùng hồn. Đây là tiếng nói khẳng định đầu tiên của cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc.
Trong phần bản cáo trạng, Bác đã đưa ra những lí lẽ và dẫn chứng cụ thể trên mọi phương diện. Từ chính trị, kinh tế đến quân sự và văn hóa, Bác liệt kê đầy đủ những thủ đoạn áp bức bóc lột mà nhân dân ta phải hứng chịu từ thực dân Pháp. Bản tố cáo tội ác chi tiết của thực dân Pháp tái hiện sự tàn nhẫn, độc ác và nhẫn tâm của họ, làm sống lại hình ảnh đất nước Việt Nam trong quá khứ. Tiếp theo, Bác kể đến quá trình giành độc lập tự do của nhân dân ta. Bác mô tả những việc làm anh hùng và nhân đạo của nhân dân, nhấn mạnh quyết tâm đập tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Sự quyết tâm hiện thân như một lời thề của non sông cất lên dõng dạc và dứt khoát.
Phần kết luận của bản tuyên ngôn được coi là đúc kết lại toàn bộ: tuyên bố độc lập khẳng định quyết tâm giữ vững độc lập. Một lần nữa Bác khẳng định độc lập tự do là quyền tất yếu của dân tộc Việt Nam, như một sự thật lịch sử không thể chối cãi. Câu văn ngắn gọn, súc tích thể hiện niềm tự hào và tự tôn dân tộc. Bản Tuyên ngôn độc lập mang ý nghĩa vô cùng trọng đại. Hồ Chí Minh đồng thời giải quyết được hai vấn đề: độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân.
Có thể nói rằng, “Tuyên ngôn độc lập” là một tác phẩm văn chính luận ngắn gọn, lập luận sắc bén, dẫn chứng xác thực, kết tinh tài năng và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuyên ngôn được coi là “di sản văn hóa của dân tộc”.
"""""-KẾT THÚC PHẦN 4""""""
5. Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 5:
Vào ngày 19-8-1945, lòng dũng cảm của lực lượng cách mạng và nhân dân Hà Nội đã trỗi dậy, chiếm lấy quyền lực từ tay phát xít Nhật. Sự khởi nghĩa tổng lực đã lan tỏa khắp các tỉnh thành trên khắp đất nước. Ngày 26-8-1945, từ chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Đảng đã về Hà Nội. Tại ngôi nhà số 48 phố Hàng Ngang, Bác đã sáng tác bản Tuyên ngôn Độc lập.
Chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại diện cho Chính phủ lâm thời, trọng thể đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân. Đây là sự ra đời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện lịch sử quý giá mà còn là mẫu văn chính luận xuất sắc, điển hình trong văn học dân tộc. Nó là tổng kết đầy đủ về một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng cũng đầy anh dũng, khi dân tộc ta chống lại sự áp bức tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật, để giành lại chủ quyền tự do, độc lập.
Tuyên bố Độc lập quốc gia khẳng định: Chủ quyền độc lập và tự do của Việt Nam là một chân lý sáng ngời mà không ai có thể phủ nhận, đồng thời tuyên bố thành lập Chính phủ cách mạng tạm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng thời, tố cáo âm mưu đen tối của thực dân Pháp muốn tái chiếm nước ta và bày tỏ quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Bố cục bài văn được phân thành ba đoạn:
+ Đoạn 1: Từ đầu đến… không ai chối cãi được: Nêu nguyên lý chung của Tuyên ngôn Độc lập.
+ Đoạn 2: Từ Thế mà… đến từ tay Pháp: Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế là nhân dân ta nổi dậy giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
+ Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí và quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Cấu trúc của bản Tuyên ngôn rất chặt chẽ và hợp lý; cả ba phần tập trung vào chủ đề của bài văn. Tính logic của lập luận được thể hiện như sau: Từ nguyên lí chung làm cơ sở lí luận, dẫn đến những thực tế cần chứng minh để cuối cùng đi đến phần Tuyên ngôn, tức luận điểm chính của bài viết.
Mở đầu bản Tuyên ngôn, tác giả nêu lên nguyên lí chung mang tính khái quát: Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây cũng là luận điểm xuất phát, coi chủ quyền độc lập, tự do, bình đẳng là những thành tựu lớn của tư tưởng nhân loại, đồng thời là lí tưởng theo đuổi hết sức cao đẹp của nhiều dân tộc.
Phần thứ hai của bản Tuyên ngôn, tác giả chứng minh rằng trong hơn 80 năm đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã hoàn toàn làm trái với nguyên lí trên. Qua đó, tác giả đanh thép tố cáo tội ác trên nhiều lĩnh vực mà thực dân Pháp đã gây ra đối với nhân dân Việt Nam; đồng thời khẳng định nhân dân Việt Nam đã đối xử nhân đạo với thực dân Pháp, đã đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật để lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phân tích ngắn gọn về Tuyên ngôn Độc lập
Kết luận đề cập đến ý nghĩa của Tuyên ngôn Độc lập, kêu gọi ủng hộ chủ quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam; tuyên bố với thế giới về chủ quyền độc lập, tự do và bất khả xâm phạm của dân tộc Việt Nam.
Để hiểu rõ nội dung Tuyên ngôn Độc lập, chúng ta cần tìm hiểu về bối cảnh lãnh đạo Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn này. Viết cho ai và với mục đích gì?
Sau chiến tranh thế giới thứ II, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Ở miền Nam, quân Pháp nấp sau lưng quân Anh giải giáp phát xít Nhật. Ở miền Bắc, quân Tưởng chờ ở biên giới sẵn sàng xâm lược nước ta. Trước khi viết Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh nhận định: Mâu thuẫn giữa Anh – Mĩ – Pháp và Liên Xô có thể làm Anh – Mĩ nhân nhượng với Pháp để Pháp trở lại Đông Dương. Để tái chiếm Đông Dương mà không bị quốc tế phản đối, Pháp đưa ra luận điệu xảo trá: Đông Dương là thuộc địa của Pháp, Pháp đã có công “khai hóa” Đông Dương. Phát xít Nhật chiếm Đông Dương, nhưng nay đã đầu hàng Đồng minh, vì vậy việc Pháp trở lại Đông Dương là đương nhiên và hợp lí.
Do đó, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ tuyên bố trước quốc dân và thế giới mà còn nhằm vào đế quốc Mĩ, Anh, Pháp để ngăn chặn và đập tan âm mưu xâm lược, đặc biệt là luận điệu xảo trá của thực dân Pháp. Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập cũng là một cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa dân tộc Việt Nam và những thế lực đối địch.
Bản Tuyên ngôn mở đầu với sự trích dẫn đầy tinh tế từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, tôn vinh những chân lý vĩ đại về quyền bình đẳng, tự do và hạnh phúc. Hồ Chủ tịch khéo léo sử dụng những danh ngôn này như một chiến thuật đánh bại đối phương, tạo nên một bức tranh kiên quyết và sâu sắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.
Tài năng của Hồ Chủ tịch hiển lộ khi ông tận dụng lý lẽ của đối phương để buộc chúng phải công nhận chủ quyền độc lập, tự do của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng, ông tận dụng để trực tiếp tranh luận với Mỹ và Pháp về chủ quyền và tự do của từng quốc gia, dân tộc, và quyền sống của từng con người. Hồ Chủ tịch muốn ngăn chặn sự phủ nhận của đối phương, đánh giá cao ý thức lịch sử và chủ quan sâu sắc trong tình thế đặc biệt lúc bấy giờ.
Cuộc tranh luận giữa dân tộc ta và đế quốc, thực dân xâm lược chủ yếu xoay quanh chủ quyền tự do độc lập. Từ những vấn đề nhân quyền và quyền cá nhân trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Pháp, tác giả đã mở rộng sang quyền tự do, bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Bác Hồ thông qua lý lẽ sắc bén, khoa học nâng cao, mở rộng vấn đề thành chủ quyền độc lập, tự do của các dân tộc: 'Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do'. Ông để lại đóng góp quan trọng cho tư tưởng giải phóng dân tộc toàn cầu.
Trích dẫn hai bản Tuyên ngôn là cách Hồ Chủ tịch đặt cuộc cách mạng của nhân loại ngang hàng, khiến cách mạng Việt Nam đồng thời thực hiện nhiệm vụ của cả hai cuộc cách mạng Pháp và Mỹ. Ông muốn nhấn mạnh: 'Mục đích cao cả của cách mạng Việt Nam, của cách mạng Mỹ và Pháp là vì hạnh phúc của con người'. Bản Tuyên ngôn Độc lập khẳng định: Dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần một trăm năm để xây dựng nước Việt Nam độc lập. Hồ Chủ tịch đặt bản Tuyên ngôn của Việt Nam ngang hàng với hai bản Tuyên ngôn của hai cường quốc, khẳng định vị thế chính trị của dân tộc ta và chủ quyền độc lập, tự do. Ông nhấn mạnh: 'Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được'.
Nằm sau lưng phe Liên minh, được sự ủng hộ của Hoa Kỳ, thực dân Pháp âm mưu tái chiếm Việt Nam, mong muốn giành lấy quê hương một lần nữa. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã rõ ràng phơi bày kế hoạch đen tối đó và lên án trước công chúng về tội ác khủng khiếp của họ trong hơn 80 năm chiếm đóng nước ta, biến quốc gia chúng ta thành con mồi béo bở của chúng. Chỉ với hai từ 'Thế mà', Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ bản chất tàn ác, thiếu nhân tính của quân xâm lược Pháp, đi ngược lại với những tuyên bố về tự do, bình đẳng.
Khi xâm chiếm đất nước chúng ta, thực dân Pháp luôn lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, nhân quyền và chiến thuật 'khai hóa', 'bảo hộ' Việt Nam. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã phơi bày bản chất đen tối của chúng bằng những lý lẽ chặt chẽ và rõ ràng. Hồ Chủ tịch quyết đoán lên án chúng trên từng phương diện. Chúng tuyên truyền 'khai hóa', nhưng bản Tuyên ngôn chỉ trách tội áp bức, bóc lột tàn nhẫn và tội diệt chủng:
Về mặt chính trị, chúng không cho phép nhân dân ta có bất cứ tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành luật pháp độc ác. Chúng tạo ra ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản sự đoàn kết của dân tộc ta, để phân chia dân tộc ta.
Chúng xây dựng nhiều nhà tù hơn cả các trường học. Chúng thực hiện hành động chém giết những người yêu nước của chúng ta. Chúng đổ máu cho những cuộc nổi dậy của chúng vào những chiếc ao máu.
Chúng hạn chế tự do ngôn luận, thực hiện chính sách dối trá.
Chúng sử dụng ma túy, rượu để làm suy yếu giới trẻ của chúng ta.
Về mặt kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận cùng xương tủy, làm cho nhân dân ta trở nên nghèo đói, thiếu thốn, đất nước ta suy thoái, suy giảm.
Chúng chiếm đoạt ruộng đất, mỏ, nguyên liệu.
Chúng kiểm soát độc quyền về in ấn, xuất nhập khẩu.
Chúng áp đặt hàng trăm loại thuế không công bằng, làm cho nhân dân ta, đặc biệt là những người làm nông và những người buôn bán trở nên nghèo đói.
Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự phản bội của thực dân Pháp. Mặt một, chúng luôn tự kỷu ghi công 'khai hóa', 'bảo vệ' nước ta, nhưng mặt khác, chúng hèn nhát quỳ gối đầu hàng, nhường nước ta hai lần cho phe phát xít Nhật (từ 1940 đến 1945), khiến cho nhân dân ta phải chịu đựng vì một tình cảnh khó khăn và dẫn đến hậu quả thảm khốc năm Ất Dậu 1945, tính từ miền Bắc xuống tới Quảng Trị đã có hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
Lời văn trong đoạn này thể hiện sự tức giận trước tội ác không thương tiếc, đất nước bị ruồng bỏ của thực dân Pháp và bộc lộ thái độ căm phẫn, châm biếm sắc sảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước bản chất đê hèn của chúng:
Mùa thu năm 1940, quân xâm lược Nhật Bản xâm chiếm Đông Dương để mở rộng căn cứ tấn công Đồng minh, và thực dân Pháp đã đầu hàng, mở cửa đất nước chúng ta để đón tiếp quân Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu đựng hai lớp ách đôi: Pháp và Nhật. Cuộc sống trở nên khốn khổ và nghèo đói hơn. Đến cuối năm ngoái đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào của ta đã phải chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật Bản thu hồi quân sự của thực dân Pháp. Chúng hoặc bỏ chạy, hoặc đầu hàng. Điều đáng chú ý là chúng không “bảo hộ” được chúng ta, thậm chí, trong vòng 5 năm, chúng đã bán đất nước của chúng ta hai lần cho Nhật.
Thực dân Pháp, dưới tên của phe Đồng minh, đã chiến thắng quân xâm lược Nhật để tái chiếm Đông Dương. Bản Tuyên ngôn kết tội Pháp phản bội Đồng minh, đầu hàng Nhật, và đàn áp cách mạng Việt Nam.
Trước ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã lần lượt kêu gọi người Pháp hợp tác để chống lại Nhật Bản. Thực dân Pháp đã không đáp ứng, ngược lại, chúng còn tăng cường hành động khủng bố chống lại Việt Minh. Ngay cả khi họ thua cuộc, chúng vẫn tàn bạo giết hại đám đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Mặc dù vậy, với người Pháp, nhân dân ta vẫn giữ một tư thế khoan dung và nhân đạo. Sau sự biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp nhiều người Pháp lánh nạn, đồng thời bảo vệ tính mạng và tài sản của họ khỏi quân Nhật. Rõ ràng là, do tính hèn nhát, Pháp đã tự từ bỏ trách nhiệm “bảo hộ” ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Điều này là cơ sở thực tế cho nhận định sắc bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một sự thật lịch sử:
Thực tế là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật Bản, không còn là thuộc địa của Pháp nữa…
Thực tế là nhân dân ta đã giành lại độc lập cho Việt Nam từ tay Nhật Bản, không phải từ tay Pháp.
Sự thật không thể phủ nhận này được khẳng định mạnh mẽ trong Bản Tuyên ngôn Độc lập và có ý nghĩa quan trọng: Việt Nam không bị ràng buộc bởi bất kỳ nguyên tắc pháp lý quốc tế nào với thực dân Pháp; từ đó, từ chối quyền trở lại của Pháp vào Việt Nam.
Bác đã diễn đạt một cách rõ ràng tình hình lịch sử của đất nước ta lúc đó bằng cách ngắn gọn và chính xác: Pháp bỏ chạy, Nhật Bản xâm chiếm, vua Bảo Đại thoái vị. Đây là bước tiến quan trọng trong việc đánh bại chế độ thực dân, phát xít và phong kiến trước sức mạnh giải phóng của nhân dân ta, trước xu hướng chung của cách mạng thế giới.
Tự hào và phấn khích khi Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nhân dân ta đã vươn lên đánh bại những xiềng xích của thực dân gần 100 năm để xây dựng nên Việt Nam độc lập. Nhân dân ta còn đánh bại chế độ quân chủ hàng chục thế kỷ để lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Và Bác đại diện cho toàn bộ dân tộc Việt Nam tự hào tuyên bố rằng từ nay về sau chúng ta đã tự do hẳn khỏi quan hệ thực dân với Pháp, hủy bỏ tất cả các hiệp ước mà Pháp đã ký với Việt Nam, hủy bỏ mọi đặc quyền của Pháp tại đất nước Việt Nam. Từ việc này lặp đi lặp lại nhiều lần, làm tăng sức mạnh của lập luận: Pháp không còn có tác dụng gì ở đất nước này. Do đó, nếu thực dân Pháp một lần nữa xâm chiếm nước ta, họ sẽ phải chịu những hậu quả xứng đáng: Toàn bộ nhân dân Việt Nam, từ trên cao xuống thấp, sẽ đồng lòng đối diện với âm mưu của thực dân Pháp.
Bản Tuyên ngôn đã vạch trần bản chất xấu xa, đen tối của thực dân Pháp và thể hiện quyết tâm bất khuất bảo vệ chủ quyền dân tộc, là cách tấn công đầy hiệu quả trước công luận và đồng thời chiếm đượm sự đồng lòng ủng hộ từ những người tiến bộ trên khắp thế giới đối với dân tộc Việt Nam.
Sau khi giành được chiến thắng lịch sử, các nước Đồng minh cam kết tôn trọng độc lập của Việt Nam. Tâm huyết của đoạn văn này vừa kiên cường, vừa sâu sắc:
Chúng tôi tin rằng Đồng minh đã thừa nhận nguyên tắc bình đẳng dân tộc tại các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn và quyết định công nhận quyền tự do của dân tộc Việt Nam.
Một dân tộc đã dũng cảm chống lại ách nô lệ của Pháp suốt hơn 80 năm, đã đứng vững bên Đồng minh chống phát xít trong nhiều năm, dân tộc này xứng đáng được tự do. Quyền tự do và độc lập là điều không thể phủ nhận.
Khi kết thúc Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng thông báo với thế giới về sự xuất hiện của Việt Nam mới và khẳng định một lần nữa quyết tâm bảo vệ độc lập và tự do: Nước Việt Nam đang thưởng thức quyền tự do và độc lập, và sự thực tế là nó đã trở thành một quốc gia tự do, độc lập. Toàn bộ cộng đồng dân tộc Việt Nam quyết định sẽ đóng góp tất cả tinh thần, năng lực, tính mạng và tài sản để duy trì quyền tự do và độc lập đó.
Tuyên ngôn Độc lập có tầm vóc lớn, tiếp nối tinh thần của bài Diễn thuyết Bình Ngô của nhà chính trị, quân sự, ngoại giao tài năng Nguyễn Trãi thế kỷ XV. Dân tộc ta, mãi mãi tự hào về những anh hùng như Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh cùng những Tuyên ngôn nổi tiếng như Diễn thuyết Bình Ngô và Tuyên ngôn Độc lập. Nhiều người cho rằng Tuyên ngôn Độc lập xứng đáng là một kiệt tác văn học cổ điển, tương tự như Bình Ngô của Nguyễn Trãi xưa kia. Hai tác phẩm này đồng lòng trong việc tổng kết chiến thắng, là những tuyên bố vững chắc về chủ quyền độc lập của dân tộc ta và đều tràn ngập tinh thần hùng vĩ từ ý tưởng đến cách sử dụng văn phong. Mặc dù có chung yếu tố chính trị, Diễn thuyết Bình Ngô chủ yếu sử dụng hình tượng nghệ thuật để thuyết phục, trong khi Tuyên ngôn Độc lập sử dụng lập luận chặt chẽ, mạnh mẽ và những luận điệu hùng hồn. Tính logic khoa học hòa quyện với sự hiểu biết sâu rộng, khả năng lập luận sắc sảo kết hợp với cảm hứng nồng nàn và lòng tự hào dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên một kiệt tác chính trị mẫu mực, bất diệt.
Hơn năm trăm năm trước, sau khi đánh bại quân Minh và đẩy chúng ra khỏi biên giới, Lê Lợi đã trang trọng đọc bài Diễn thuyết Bình Ngô trước đám đông, tự hào tuyên bố: Một tâm hồn chiến thắng toàn bộ, nên chiến công hùng mạnh từ đây, biển cả bốn phương hòa bình, mọi nơi đều hưởng lợi từ sự thịnh vượng này. Ngôn từ vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ, vừa hứng khởi như cơn sóng cuồn cuộn, thật xứng đáng với sự khen ngợi là một kiệt tác văn học cổ điển có giá trị vô song. Năm trăm năm sau, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự kết thúc của chế độ quân chủ phong kiến chi phối quốc gia hàng nghìn năm; chấm dứt thời kỳ thuộc địa của thực dân Pháp kéo dài gần một thế kỷ; mở ra một kỷ nguyên mới của chế độ Dân chủ Cộng hòa tại Việt Nam.
"""""""HẾT BÀI 5"""""""---
6. Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 6:
Hồ Chí Minh, một nhà lãnh đạo cách mạng và là nhà văn, nhà thơ xuất sắc của dân tộc Việt Nam. Mỗi tác phẩm của ông phản ánh một tư tưởng chính trị rõ ràng và tinh thần yêu nước sâu sắc.
Tuyên ngôn độc lập được viết bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1945, sau thành công của cách mạng tháng 8, khi nhân dân lao động chiếm quyền lực, đuổi đuổi phát xít Nhật khỏi đất nước.
Đây là kết quả của nhiều thành tựu lớn, nơi ông cha ta đã hy sinh rất nhiều để giành quyền lực cho đất nước.
Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, tác giả mở đầu bằng việc nêu rõ căn cứ pháp lý và lập luận chặt chẽ, không để ai có thể phủ nhận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập đã tham chiếu đến tuyên ngôn của Pháp và Mỹ. Ông muốn nhắc nhở hai đế quốc này về sự không nhất quán giữa những gì họ tuyên bố trong hiến pháp và thực tế ở các nước khác. Họ đã đối xử ngược lại với những gì họ viết, gây áp lực và bóc lột khi đàn áp các quốc gia khác.
Hồ Chí Minh đã sử dụng lý lẽ của đối thủ. Cả Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh quyền con người trong tuyên ngôn của họ. Chủ tịch đã mở đầu cho một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đặt nền móng cho quyền dân tộc.
Bản Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm xuất sắc trong văn hóa Việt Nam
Những hành động của họ với nước ta không hề phản ánh văn minh và dân chủ. Tác giả kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh. Họ áp đặt chế độ sưu cao, thuế nặng, bóc lột dân ta đến tận xương tủy. Họ tàn bạo giết hại dân ta, hủy hoại đồng bào yêu nước của ta. Tác giả làm nổi bật tội ác của thực dân Pháp, thức tỉnh lòng yêu nước trong mỗi người dân, khuyến khích tình yêu quê hương.
Chính thực dân Pháp là nguyên nhân dẫn đến nạn đói kinh hoàng năm 1945, khiến hai triệu đồng bào ta mất mạng. Họ chuyển giao nước ta cho Nhật, khiến cho dân ta trải qua nghèo đói và khốn cùng. Thực dân Pháp còn đàn áp các phong trào yêu nước của dân ta, giết hại đồng bào ta, đặc biệt là tại Yên Bái, Cao Bằng...
Với lời lẽ hùng hồn và đanh thép, tác giả tố cáo những tội ác dã man của thực dân Pháp với nhân dân ta. Bộ mặt khai hóa văn minh của chúng thực chất chỉ là bóc lột. Hồ Chí Minh đánh thức lòng căm thù giặc và tình yêu nước sâu sắc trong trái tim người Việt Nam.
Thụy Hương thông qua Tuyên ngôn độc lập cũng ca ngợi phong trào chống thực dân và phong kiến giành độc lập của nhân dân trong cách mạng tháng 8/1945, khiến phát xít Nhật phải đầu hàng.
Qua Bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra nhiệm vụ, hướng đi của nhân dân ta trong giai đoạn sắp tới, khi thực dân Pháp vẫn giữ âm mưu đô hộ, xâm lược nước ta. Nhân dân ta phải đoàn kết để tiếp tục chiến đấu giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ này.
Trên cơ sở những gì đã có, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố Việt Nam là quốc gia độc lập hoàn toàn, không chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Thực dân Pháp không có quyền gì đối với đất nước ta.
Kết thúc Bản Tuyên ngôn độc lập, người nêu lời thề quyết sẽ đóng góp tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.
Với bản Tuyên ngôn độc lập, nước Việt Nam đã bước lên sân khấu chính trị quốc tế như một quốc gia độc lập và tự do. Bản Tuyên ngôn này đã được cộng đồng tiến bộ thế giới công nhận và trọng trọng.
Với từ ngữ chặt chẽ, lập luận đanh thép, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo bản Tuyên ngôn độc lập bằng những ngôn ngữ sâu sắc nhất, rõ ràng thể hiện thái độ và quan điểm của dân tộc Việt Nam trong những thời kỳ sắp tới, thể hiện tầm nhìn chiến lược lớn của Hồ Chí Minh.
Chấm dứt bài 6.
7. Phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mẫu số 7:
Mùa thu năm 1945, khắp cả nước ta rộn ràng trong niềm vui hân hoan. Thành công của Cách mạng tháng Tám đã giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi xiềng xích nô lệ và áp bức, dẫn họ vượt qua cửa tối tăm bước vào thế giới sáng tỏ của độc lập và tự do. Ngày 2/9, trước hàng triệu người trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, đánh dấu sự ra đời của một Việt Nam mới, một Việt Nam tự do, độc lập và dân chủ. Bản tuyên ngôn, được Hồ Chủ Tịch viết với niềm vui tột cùng, truyền đạt tất cả tâm hồn và sự thông hiểu, tuyên bố một cách vững vàng và hùng hồn với thế giới về sự tồn tại độc lập và chủ quyền của nước ta.
Tuyên ngôn này ngắn gọn nhưng vô cùng chặt chẽ, chỉ chứa khoảng một ngàn từ nhưng đầy ý nghĩa. Nó được chia thành ba phần rõ ràng, mỗi phần mang một ý, tạo nên một cấu trúc mạch lạc... Phần đầu tiên của Tuyên ngôn đề cập đến những chân lý về nhân quyền và dân quyền. Tác giả khéo léo trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới, bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp, làm cho nó trở nên sâu sắc hơn. Bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ ra đời sau chiến tranh giành độc lập thành công, trong khi bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” xuất hiện trong bối cảnh chiến thắng của cách mạng Pháp - một cuộc chiến tranh giành tự do và công bằng từ những thị dân và nông dân chống lại sự áp bức. Những lời nói trong hai bản Tuyên ngôn này không chỉ thể hiện những chân lý mà còn đại diện cho những cuộc cách mạng tiên phong của các quốc gia có ảnh hưởng toàn cầu, mang tính quốc tế, không ai có thể phủ nhận tính đúng đắn của chúng. Điều này cho thấy sự hiểu biết và suy nghĩ kỹ lưỡng của Chủ tịch khi sử dụng những trích dẫn này. Hơn nữa, Người đã sáng tạo bằng cách áp dụng ý tưởng: “Nếu suy rộng ra, câu đó có nghĩa là: tất cả những con người trên thế giới đều được sinh ra bình đẳng; mọi dân tộc đều có quyền sống, quyền hạnh phúc và quyền tự do”.
Tuyên ngôn đã khẳng định sự độc lập và tự chủ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tác giả đã chuyển từ khái niệm về con người sang khái niệm về dân tộc một cách tổng quát hơn và thuyết phục hơn. Đáng chú ý, lời trích dẫn từ bản “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” ngay từ đoạn đầu đã tạo ra một sức mạnh và sự tiềm ẩn của Tuyên ngôn độc lập. Bởi vì chính phủ Pháp, trong khi phục vụ tinh thần của “Tuyên ngôn nhân quyền”, lại thực hiện những hành động ngược lại; “Hơn tám mươi năm nay, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do... hành động của họ đối lập hoàn toàn với nhân đạo và chính nghĩa”. Rõ ràng thông qua lập luận như vậy, sự thật được tiết lộ một cách rõ ràng: bản chất của thực dân Pháp ở Việt Nam là đối lập với nhân đạo và chính nghĩa, kết thúc phần này bằng một câu khẳng định ngắn gọn và thuyết phục. Phần thứ hai liệt kê một cách ngắn gọn và đầy đủ các tội ác mà thực dân Pháp đã gây ra trên đất nước ta trong gần một trăm năm chiếm đóng.
Đầu tiên, họ tước đoạt tự do chính trị 'hoàn toàn không để lại bất kỳ quyền tự do dân chủ nào cho nhân dân ta...”, chúng tàn bạo giết những người tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”, “chúng thực hiện những luật pháp độc ác”, “chúng thiết lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam và Bắc, nhằm ngăn cản việc thống nhất quốc gia của chúng ta, nhằm ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”... Chỉ trong một đoạn văn ngắn hai mươi mốt câu, tác giả phá hủy chiêu bài 'mở rộng, bảo hộ' giả dối mà chúng đã sử dụng để che đậy những hành động xấu xa và tàn bạo. Từ những hành động tàn nhẫn của thực dân Pháp như khủng bố Việt Minh, giết những người tù chính trị... tác giả dẫn dắt chúng ta đến những hành động nhân đạo. Chúng ta đối đầu với phát xít, chúng ta đứng vững bên mặt trận dân chủ chống lại phát xít, chúng ta có vai trò và vị thế đáng kể trước thế giới do sức mạnh tự chủ của dân tộc. Sự tự do mà chúng ta vừa giành được thực sự là vô giá, và để đạt được nó, nhân dân ta đã phải trả giá bằng bao nhiêu hy sinh, xương máu và tâm huyết. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều thế lực thù đang lợi dụng mọi cơ hội để đe dọa sự sống sót của nước Việt Nam non trẻ. Nhận thức được điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân bày tỏ lời tuyên bố nghiêm túc và quyết liệt.