Top 13 bài phân tích chi tiết khổ 3 của bài thơ Bếp lửa được viết bởi các học sinh giỏi trên toàn quốc, cùng với 2 dàn ý chi tiết, giúp bạn hiểu sâu sắc hơn về tình cảm đầy ấm áp giữa bà và cháu.
Khổ 3 của bài thơ Bếp lửa tái hiện lại những kỷ niệm đáng nhớ bên bà trong suốt 'tám năm ròng'. Hãy đồng hành cùng Mytour để hiểu rõ hơn về bài thơ này được học trong sách Văn 9, bài 6 của chương trình Ngữ văn 8 - Kết nối tri thức Tập 2.
Dàn ý phân tích chi tiết khổ 3 của bài thơ Bếp lửa
Nội dung dàn ý số 1
1. Khởi đầu:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và phân khúc thơ thứ ba.
2. Phát triển:
a) Nội dung chính:
- Thời gian: Suốt tám năm; Nhân vật: Cháu, bà; Hành động: Tụ tập quanh lửa bếp.
=> Những kỷ niệm từ thời thơ ấu dính liền với bà và bếp lửa của tác giả.
- Tiếng chim hót: Âm thanh quen thuộc mở ra những kỷ niệm trong suốt tám năm sống bên bà. Hình ảnh độc đáo làm cho nỗi nhớ trở nên cảm xúc.
- Bà: luôn kể chuyện, dạy bảo, chăm sóc và dạy dỗ cháu -> Tình thương mẹ hiền, tấm lòng rộng lượng và yêu thương vô hạn của bà.
- Tiếng chim hót cuối khổ: giọng thơ tự nhiên nhưng vẫn lưu lại sự chân thành, cảm động.
- Câu hỏi nhẹ nhàng: Tình cảm nhớ mong, lo lắng của cháu dành cho bà.
- Nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, và tình thương bà một mình trong hoàn cảnh khó khăn.
b) Nghệ thuật Sáng tạo:
- Phép kết nối, những lời dịu dàng, những hành động ân cần của bà dành cho cháu => Tấm lòng biết ơn sâu sắc của cháu dành cho bà.
- Giọng thơ nhẹ nhàng, như đang thổn thức, đong đầy tình cảm.
3. Kết luận:
- Tóm tắt lại cảm xúc của nhà thơ trong phần khổ ba.
Dàn ý thứ hai
1. Giới thiệu
- Thông tin tổng quan về tác giả Bằng Việt.
- Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa và phần khổ ba của nó.
2. Phần thân
- Gợi mở nguồn cảm xúc:
- 'Khoảnh khắc tám năm': thời gian tuổi thơ bên bà
- 'Tiếng chim ríu rít': âm thanh khơi dậy kí ức về những ngày bên bà.
- Hồi ức ngọt ngào với bà trong tuổi thơ:
- Bà kể cho cháu nghe những câu chuyện về Huế xưa.
- Bà thay cha mẹ chăm sóc, dạy bảo cháu học hành.
- Bà dạy cho cháu từng chữ, chỉ cho cháu từng việc nhỏ, cách đối nhân xử thế hàng ngày.
=> Hồi ức ấm áp về tình thân bà cháu.
- Tình cảm của cháu dành cho bà:
- 'Thương bà khó nhọc': hiểu biết và chia sẻ gánh nặng của bà, dành trọn tình yêu thương cho bà.
- 'Thương bà cô đơn': tác giả nhẹ nhàng thốt lên những lời quan tâm, như tiếng chim hót vang mãi trên bờ ruộng xa, không ngừng mỏi mòn đến bên bà, xoa dịu nỗi cô đơn, lạc lõng của bà.
3. Kết bài
- Xác nhận giá trị của khổ thơ thứ ba cũng như của bài thơ nói chung.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 1
Khi nhớ lại thời thơ ấu tám tuổi, trong những năm tháng được bà ân cần chăm sóc, dạy dỗ, tôi bắt gặp hình ảnh ''Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa''. Đó là khoảng thời gian mà tôi được bà yêu thương, che chở và bao bọc. Sống bên bà trong tám năm, dù gặp nhiều khó khăn nhưng tràn đầy tình thương. Bếp lửa không chỉ là nơi ấm áp mà còn là tình yêu thương của bà, là nguồn động viên tinh thần, là sự chăm sóc đầy quan tâm của bà. Đó cũng là những kỷ niệm trong sáng, vô tư qua hình ảnh chim tu hú:
''Tiếng chim tu hú vang trên cánh đồng xa
.....
Âm thanh đó tha thiết đến thế!''
Tiếng chim tu hú - một âm thanh quen thuộc của nông thôn mỗi khi mùa hè về, báo hiệu mùa lúa vàng rộ và vải chín đỏ. Có lẽ, tiếng chim tu hú còn là giọt sương sớm của trời đất với cuộc sống gian khổ của hai bà cháu. Tiếng chim tu hú như làm xao xuyến, làm rạo rực những kí ức sâu thẳm, gợi lại những nỗi niềm. Tiếng chim tu hú đem đến sự nhớ mong, sự thương tiếc: Về những năm chiến đấu chống Pháp ''mẹ và cha vắng nhà làm việc'', bà đồng thời làm cả mẹ lẫn cha. Về những kỷ niệm tuổi thơ, về thời gian cháu được bà chăm sóc, dạy bảo, sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc và sự bảo vệ toàn diện của bà:
''Cháu cùng bà, bà kể chuyện cho cháu nghe
Bà dạy cháu, bảo vệ cháu học ''
Các hành động như ''bà bảo'', ''bà dạy'', ''bà chăm'' đã thể hiện sâu sắc tấm lòng bao la, sự quan tâm, và lòng nâng niu của bà dành cho đứa cháu nhỏ. Việc lặp lại các từ ''bà'' - ''cháu'' bốn lần, xen kẽ vào nhau như thể hiện tình thân mật, tình yêu thương giữa bà và cháu. Điều này cho thấy bà không chỉ là bà mà còn là sự kết hợp đẹp đẽ giữa tình cha, nghĩa mẹ, và lòng biết ơn đối với người thầy.
Tình cảm sâu sắc, lòng kính trọng đối với bà của người cháu được thể hiện một cách chân thành qua câu thơ:
''Nhóm bếp lửa đong đầy tình thương cho bà''
Từ việc lớn lên bên bếp lửa của bà đến khi hiểu được những gian nan của cuộc sống của bà, cậu bé trưởng thành. Hình ảnh con chim tu hú tiếp tục hiện diện ở cuối bài thơ với một câu hỏi sâu sắc, thể hiện lòng nhớ mong của tác giả về tuổi thơ, về bà:
''Tiếng chim tu hú ơi! Chẳng thể nào quên bên bà
Kêu vang mãi trên những cánh đồng xa?'
Câu thơ tạo ra hình ảnh chú chim lạc lõng, bơ vơ, cô đơn, mong muốn được ấp ủ, che chở. Tác giả giao tiếp với chim tu hú như để giảm bớt nỗi lòng. Anh hỏi chim tu hú thật ra là tự hỏi lòng mình, lo lắng bà sẽ cô đơn, buồn khi anh đi học xa. Hỏi chim tu hú cũng là cách thể hiện lòng nhớ mong hơi ấm của bà. Tu hú ở với bà anh nhé, bà anh có một trái tim nhân từ lắm! Đứa cháu được sống trong tình thương, sự che chở của bà đã làm đầy lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả cảm kích những ngày tháng được bà yêu thương, chăm sóc. Khổ thơ là những hồi ức về quá khứ, cùng với đó người cháu luôn biểu hiện sự nhớ thương không hạn chế và lòng biết ơn sâu sắc đối với bà.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 2
Mỗi người khi sinh ra đều có những kỷ niệm về tuổi thơ của mình. Có những niềm vui, cũng có những nỗi buồn, những niềm sung sướng cũng có những khó khăn. Bằng Việt cũng không ngoại lệ, với ông, toàn bộ kỷ niệm về tuổi thơ là thứ ông không thể nào quên, những kỷ niệm bên người bà yêu dấu, đó là lý do tại sao bài thơ Bếp lửa ra đời. 'Bếp lửa' không chỉ là nơi ấm áp tình cảm của bà cháu mà còn là điều làm ấm lòng một đời người... 'Bếp lửa' cũng chính là bà đang bên cháu, hình ảnh của bà hiện hữu qua ánh lửa.
Ở một quốc gia xa xôi, cô đơn, mọi kỷ niệm về người bà nuôi dưỡng ông trưởng thành hiện ra như mới như hôm qua:
“Tám năm cháu cùng bà nhóm lửa
........
Tiếng tu hú sao thật tha thiết!”
Giọng thơ thủ thỉ như kể một câu chuyện cổ tích. Đó là những năm tháng của cuộc sống gian khổ, cơ cực mà đứa cháu lớn lên trong sự che chở, đùm bọc, cưu mang của người bà. Tám năm. Tám năm kháng chiến. Tám năm khó khăn. Tám năm trời dài đằng đẵng với bao kỷ niệm buồn vui bên bà, bên bếp lửa.
Nếu trong hồi ức lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất là mùi khói thì ở đây, ấn tượng ấy là tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú vang lên vừa gợi lại trong tâm hồn tác giả bao kỷ niệm khó quên, vừa dấy lên nỗi nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bà, nhớ bếp lửa.
Tiếng chim tu hú gợi về những buổi mai, hai bà cháu cùng nhau nhóm lửa giữa không gian mênh mông, cô quạnh. Tiếng chim lúc mơ hồ, vang vọng từ “những cánh đồng xa”, lúc lại gần gũi, xót xa, nghe “sao mà tha thiết thế”. Tiếng chim tu hú như giục giã, khắc khoải điều gì da diết lắm khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Tiếng chim tu hú chính là hình ảnh của quê hương, nơi đó có người bà dù khó nhọc nhưng giàu tình yêu thương con cháu.
Nhà thơ đang kể chợt quay sang trò chuyện với bà, tưởng như bà đang ngồi đối diện “bà còn nhớ không bà”. Bà có nhớ những câu chuyện bà vẫn thường kể, những câu chuyện cổ tích hằng đêm, dưới ánh trăng sáng, cháu ngồi trong lòng bà, đu đưa trên chiếc võng, vừa nghe bà kể vừa mân mê những sợi tóc bạc của bà hay những câu chuyện về các anh bộ đội cụ Hồ dũng cảm, xả thân vì nước, vì dân? Bà có nhớ những việc làm tận tụy đầy yêu thương của bà dành cho cháu, nhất là trong những buổi chiều hai bà cháu ngồi nhóm bếp? Làm sao cháu có thể quên được hồi ấy:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi dưỡng. Đối với tác giả, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài học quý giá về đạo làm người, dạy cho cháu niềm tự hào về dân tộc ta, một dân tộc bất khuất, kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục để bảo vệ quê hương Việt Nam. Đối với cháu, bà và tình yêu thương sâu lắng của bà dành cho cháu sẽ luôn là một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm tựa của tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn.
Đến tận bây giờ, dù đang du học nơi xứ người, đang đứng dưới trời tiết giá lạnh, cháu vẫn cảm nhận được cái ấm áp của tình yêu thương, của sự vỗ về, chăm sóc của bà. Càng nghĩ về bà, cháu lại càng thương bà hơn. Thương bà ở một mình dưới túp lều tranh xiêu vẹo, thương bà mỗi ngày một mình nhóm lửa, lòng luôn cầu mong đứa cháu được bình an. Từ tình yêu thương sâu sắc của mình dành cho bà, tác giả quay sang khẽ trách con chim tu hú:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Tác giả đang trách chim tu hú mãi bay xa ngoài các cánh đồng, không đến ở cùng với bà đỡ cô quạnh, đỡ buồn tủi hay tác giả đang trách sự vô tâm, bất lực của chính bản thân mình? Câu thơ như một lời than thở thật tự nhiên, cảm động vô cùng chân thật, thể hiện nỗi nhớ thương da diết người bà của đứa cháu. Thời gian cứ trôi qua, bà vẫn xa đằng đẵng…
Tiếng chim tu hú khép lại khổ thơ mà cứ như xoáy sâu vào tâm trí kẻ xa quê đang dáo dác kiếm tìm những kỉ niệm yêu thương… Âm điệu trong khổ thơ thật da diết, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của thi sĩ: nỗi nhớ quê, nhớ bà da diết, sâu đậm, day dứt…
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 3
Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ “Bếp lửa” được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô.
Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà. Lớn lên từ những câu chuyện bà kể, từ những việc bà dạy cháu, từ những bài học của bà, mọi thứ như đang ở ngay trước mắt.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
...............
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người.
Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 4
Nhắc đến Bằng Việt, không ai là không nhắc đến Bếp lửa. Bếp lửa như một thứ gì đó âm ỉ nhưng không bao giờ tắt vì nó là tất cả những gì nhà thơ có của một thời tuổi thơ của mình. Bằng Việt sáng tác ra bài thơ Bếp lửa trong những tháng năm xa nhà, ở một đất nước xa xôi, nơi mà con người ta cảm thấy cô đơn và dễ hoài niệm. Ông đã có những kỷ niệm với biết bao nhiêu gian khổ cùng người bà yêu dấu của mình, những kỷ niệm đã đi cùng ông cho đến cả cuộc đời sau này.
Con người ta có xa nhà, có cô đơn mới chợt nhớ về những người thân thương, nơi mà những con người đó mang đến cho ta những kỷ niệm đáng giá. Và với Bằng Việt cũng vậy, những năm tháng chiến tranh đã cho ông có được những kỷ niệm khắc cốt ghi tâm với người bà, ông lớn lên từ những câu chuyện bà kể, những việc bà dạy và cả những bài học bà chỉ.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Âm thanh của tiếng chim tu hú quen thuộc ở chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, réo rắc cuộn xoáy vào trong lòng của người con xa xứ. Âm thanh của tú hú kêu được tái hiện trong những cung bậc và cảnh huống khác nhau: khi thì từ cánh đồng xa vọng lại (Tu hú kêu trên những cánh đồng xa) gợi lên một không gian rộng lớn, mênh mông và vắng lặng; khi thì lại rộn lên khắc khoải, da diết khiến lòng người trỗi lại những hoài niệm xa xăm (Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà/ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế); khi thì lại gióng giả, kêu hoài đến khô khan, lạnh vắng trên những cánh đồng xa xôi, heo hút (Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa)... Tiếng chim tu hú trở thành điệp khúc chủ âm của những dòng hoài niệm hồi tám tuổi, có tác dụng khắc họa không gian sống vắng lặng, heo hút, mênh mông; lại vừa gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn trống trải đến da diết, rợn ngợp. Tuy nhiên, tuổi thơ của người cháu vẫn thấm đẫm tình cảm yêu thương, đùm bọc cưu mang của người bà yêu quý. “Mẹ và cha công tác bận không về” và hai bà cháu nương tựa vào nhau. Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu.
Vì thế, bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 5
Mỗi người chúng ta, không ai có thể quên những kí ức, những cảm xúc về quê hương, về ông bà, những người đã sinh ra cha mẹ ta. Bài thơ của Bằng Việt giống như là tiếng ru của mẹ, những câu chuyện của ông bà...
Bằng Việt là một nhà thơ trẻ nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Anh đã viết thơ từ khi còn là học sinh, sinh viên. Bài thơ 'Bếp lửa' được sáng tác vào năm 1963, khi anh đang du học ở nước ngoài. Đây được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của anh - biểu hiện cho tài năng và tình cảm sâu sắc của một nhà thơ. Bài thơ có đoạn:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa.
... Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Đoạn thơ đầy xúc động tái hiện lại những kí ức đẹp, những khoảnh khắc đầy ý nghĩa trong thời gian 'tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa'. Ngọn lửa ấy được thắp lên bằng bàn tay của hai bà cháu, bởi cuộc sống vất vả hàng ngày. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy chứa đựng tình yêu thương 'ấm áp và sâu lắng' mà bà đã trao cho cháu từ những ngày xưa, khi cháu mới 'bốn tuổi'. Tiếng kêu tha thiết của chim tu hú trên những cánh đồng xa gợi lại kỷ niệm và nỗi nhớ, làm cho nhà thơ lại cảm nhận được những câu chuyện của bà. 'Tám năm ròng'... - một quãng thời gian đầy cảm xúc đã trôi qua, nhưng làm sao cháu có thể quên được? Cháu suy tư, cháu tự hỏi hoặc cháu hỏi bà?
... Khi tiếng kêu của tu còn vọng lại trong ký ức bà
Bà thường kể về những kỷ niệm ở thành phố Huế
Âm thanh của tiếng kêu tu vẫn đọng mãi trong lòng bà!
Hình ảnh của ngọn lửa và âm thanh của tiếng chim kêu tu mang trong mình một sức mạnh diễm lượng, tạo ra những cảm xúc sâu lắng và ý nghĩa sâu xa.
Với sáu câu thơ tiếp theo, Bằng Việt đã vẽ nên hình ảnh của bà, người phụ nữ đáng kính và đáng yêu, qua những năm tháng gian khổ đã dành cho việc chăm sóc và dạy dỗ cháu trai trở thành người.
Cha mẹ bận rộn với công việc, không có thời gian ở bên,
Cháu ở với bà, và bà luôn dạy dỗ cháu nghe lời
Bà dạy cháu cách sống, bà chăm sóc cháu học hành...
Câu thơ này có hai vần đối nhỏ, với một nhịp điệu êm đềm và hài hòa. Từ “bà”, từ “cháu” lặp lại nhiều lần, “Cháu ở với bà... bà dạy... bà chăm sóc...”, tạo nên sự liên kết mạnh mẽ giữa hai tâm hồn của bà và cháu trong tình yêu thương. Cháu trưởng thành và khôn ngoan, được nuôi dưỡng và yêu thương trong vòng tay của bà. Bà đã dành thời gian khuya và sớm để chăm sóc cho “ngọn lửa” trong tâm hồn nhỏ bé của cháu, tạo nên một không gian ấm áp trong cuộc sống mà cha mẹ xa vắng. Ngọn lửa ấy, mà bà đã nhen lên từ “bếp lửa”, đã làm ấm và chiếu sáng cho con đường phía trước của cháu.
Đắc tội của bà nặng nề, trong lòng cháu - nhà thơ - hình ảnh của bà vẫn tỏa sáng mãi, không phai nhạt. Tiếng kêu của chim tu hú xen kẽ hình bóng bà, tạo nên một tương hợp tuyệt vời, được biểu hiện qua nghệ thuật cảm thán và những câu hỏi sâu lắng, đã khắc sâu nỗi nhớ và tình thương, một cảm xúc rối bời trong tâm trí và kí ức:
Chim tu hú ơi! Sao không đến bên bà,
Kêu vang mãi trên những cánh đồng xa xôi.
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng gợi lên những cảm xúc rộn ràng, đầy bâng khuâng. Tiếng chim tu hú như là một lời thốt vào quá khứ, gợi lại những kỷ niệm...
Hình ảnh của “Bếp lửa” liên kết với tổ ấm gia đình, cũng như âm thanh của tiếng chim tu hú liên kết với cánh đồng rộng lớn. Bằng Việt đã khéo léo chọn lựa hai hình ảnh đó để thể hiện lòng biết ơn, tình yêu quê hương và nhớ thương bà, với tình yêu thương dành cho quê hương. Bếp lửa và tiếng chim trở thành biểu tượng của tình thân thiết quê nhà, về những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ.
Mỗi người chúng ta, ai cũng giữ trong lòng mình những âm thanh, cảnh sắc của quê hương, những kỷ niệm đáng nhớ, và hình ảnh của ông bà, những người đã sinh ra cha mẹ của chúng ta? Bài thơ của Bằng Việt như là lời ru của mẹ, câu chuyện của bà... từ những kí ức tuổi thơ. Những tình cảm đó được diễn đạt một cách thơ mộng...
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 6
Bằng Việt là một trong những nhà thơ đã lớn lên trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Với phong cách viết tự sự, trữ tình riêng biệt, ông đã để lại những tập thơ đậm dấu ấn trong lòng độc giả như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt của những khoảnh trời, Đất sau mưa… Bài thơ “Bếp lửa”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của nhà thơ khi mô tả lại những ký ức về người bà ở quê hương trong những năm tháng mà tác giả ở xa quê. Bếp lửa là những kỷ niệm không phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhớ đến bếp lửa, hình ảnh người bà hiền lành lại hiện về trong ký ức.
Thuở ấy, tuổi thơ của cháu liên quan chặt chẽ với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ.
'Tám năm dài cháu ở cùng bà, nhóm lửa
Tiếng tu hú vang trên những cánh đồng xa xôi
Khi tiếng tu hú vang, bà còn nhớ không bà
Bà thường kể về những ngày ở Huế
Âm thanh của tiếng tu hú sao mà đầy cảm xúc thế'
Cháu đã trải qua nhiều năm bên bà, sống gần gũi với cánh đồng quê, cùng bà thắp sáng những ngày dài bên bếp lửa thân quen. 'Tám năm dài'- thời gian đủ dài để cháu ghi nhớ những lời dạy của bà, những câu chuyện của bà về ngày ở Huế, về những kỷ niệm xưa. Tiếng tu hú vọng lên trong bài thơ như mời gọi quá khứ trở lại, đánh thức những kí ức xưa. Những dòng thơ ấy chứa đựng những tình cảm, những nỗi xúc động sâu sắc:
'Cha mẹ vì công tác bận rộn không thể về
Cháu cùng bà, bà dặn cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Ngọn lửa bếp nhóm, nghĩ đến bà khó khăn
Chim tu hú ơi, sao không đến bên bà
Kêu vang mãi trên cánh đồng xa!'
Có những lúc “Làng bị giặc đốt cháy tan, tan hoang” trong khi mẹ và cha phải công tác xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay yêu thương của bà. “Bà dặn cháu nghe” mỗi câu chuyện về quê hương, “bà dạy cháu làm” mọi việc trong nhà, “bà chăm cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom đạn. Tất cả những việc nhỏ bé, bình thường trong cuộc sống đều đặt lên vai của người bà kiên cường, mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà nhiều năm đã làm tình cảm của cháu dành cho bà trở nên lớn lao như vậy. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, mỗi lần bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ bảo cháu học. Thậm chí cả lúc bà dặn cháu viết thư đừng kể về khó khăn ở quê nhà để ba mẹ không phải lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lo lắng cho con cháu, dù vất vả, mệt mỏi cũng chẳng lên tiếng kêu ca, trách móc. Hình ảnh tiếng chim tu hú vẫn vang xa trên cánh đồng, nhưng không đến bên bà có lẽ chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã đọng chặt, tiếng gọi bà vọng về nhưng không thể quay lại bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng dòng thơ.
Hình ảnh bà luôn đậm chất ấm áp yêu thương và tình cảm hai bên bà cháu luôn thiết tha không dễ gì quên. Bằng lời thơ dịu dàng, tận tình và hình ảnh đầy ý nghĩa biểu tượng kết hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, tác giả đã sáng tạo ra một bài thơ đầy xúc cảm. Đọc bài thơ, em hiểu thêm cảm giác của những người con xa quê mong ngóng ngày sum họp, trân trọng hơn những khoảnh khắc lao động, sum vầy bên gia đình, thêm yêu quê hương, đất nước, nơi đã dưỡng dạy tâm hồn mình qua bao khoảnh khắc thời gian.
Phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa - Mẫu 7
Hai giờ sáng, đang mơ màng trong giấc ngủ với giấc mơ về Quảng Ninh thân thương thì bạn cùng phòng bật dậy, làm tôi tỉnh giấc, không thể tiếp tục ngủ được. Lúc đó, tôi ngẫm về giấc mơ của mình, men theo những kí ức về bà ngoại - người thường ru tôi ngủ và đã ra đi cách đây mười năm. Tôi nhớ bà và trong khoảnh khắc đó, đôi mắt ướt nhòa vì chỉ có thể gặp bà qua những bức ảnh thôi. Trong tâm trí, tôi nhận ra có người khác cũng yêu quý bà như tôi, cũng có thể hiểu được, và đó chính là nhà thơ Bằng Việt. Trong bài thơ “Bếp lửa”, tác giả Bằng Việt đã viết về kỷ niệm đẹp của người cháu về thời thơ ấu ở bên bà:
“Tám năm trôi qua, cháu và bà vẫn bên lửa
Tiếng tu hú vang vọng trên những cánh đồng xa
Bà có còn nhớ không, những ngày ở Huế?
Bà thường kể chuyện cho cháu nghe
Âm thanh của tu hú đã ấm áp đến thế
Mẹ và cha bận rộn, không thể về
Cháu ở cùng bà, nghe bà dạy dỗ
Bếp lửa luôn là nơi đặc biệt, bà gắn bó
Tu hú ơi! Sao không đến bên bà?
Kêu lên đi, trên những cánh đồng xa?”
Với những ai yêu thích Bằng Việt, ông luôn gợi nhớ đến những bài thơ tâm trạng, sâu lắng, trong veo, tinh tế, cùng với sự triết lý, suy tư. Bằng Việt đã thành công với nhiều tác phẩm, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Bài thơ “Bếp lửa” của ông đã đánh thức những ký ức tuổi thơ trong lòng hàng triệu người. Trong thời gian du học ở Liên Xô, ông đã chia sẻ: “Những năm đầu học Luật ở đó, tôi nhớ nhà lắm. Mùa thu se lạnh, sương khói bay mịt mù vào buổi sáng, nhớ lại hình ảnh của bà nội dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai cho cả nhà.” Và từ đó, bài thơ “Bếp lửa” được viết ra. Đây là một tác phẩm đầy cảm xúc, gợi lại những kí ức về người bà, tình cảm gia đình và quê hương.
Mặc dù chỉ trong mười một câu thơ, Bằng Việt đã tóm gọn những kí ức đẹp của cháu bên bà từ khi còn nhỏ. Đoạn thơ đầy cảm động nhắc nhở về những ngày tháng êm đềm, sâu sắc ở bên “Tám năm trôi qua cùng bà bên lửa”. Trong suốt thời gian đó, cháu đã nhận được tình yêu thương, sự chăm sóc từ tấm lòng của bà. Tám năm - một khoảng thời gian không dài nhưng đủ để cháu hiểu được tình yêu thương từ bà. Một cuộc sống đầy khó khăn nhưng lại tràn đầy tình thương từ bà. Cháu mong muốn có thể ở bên bà mãi mãi, chia sẻ mọi niềm vui, buồn. Người bà luôn là người đặc biệt, vẫn mãi hiện diện trong văn học Việt Nam. Trong bài thơ “Đò lèn”, nhà thơ Nguyễn Duy cũng đã miêu tả hình ảnh của người bà mộc mạc, chịu khó:
“Tôi không biết bà mình cực khổ đến thế nào
Bà bám biển, hái cua, xắc tép ở Đồng Quan
Bà bán chè xanh ở Ba Trại
Quán cháo Đồng Giao, thấp thoáng đèn trời qua đêm lạnh.”
Trong suốt thời gian sống với bà, tiếng tu hú chính là nhân chứng của những kỷ niệm đẹp đẽ giữa bà và cháu. Tiếng chim tu hú vang xa, chứng tỏ âm thanh đó đã vượt qua những không gian bao la. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật sôi động hơn mà càng làm cho cảnh sắc trở nên trống vắng, buồn bã. Tác giả như đang trò chuyện với bà: Bà còn nhớ không? Chỉ có hai bà cháu mới hiểu được ý nghĩa thực sự của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú rất da diết, đầy xúc động, khiến cháu không thể quên và luôn gợi lên những kỷ niệm xúc động. Có lẽ khi nghe tiếng chim tu hú từ xa, hai bà cháu mới cảm nhận rõ sự thiếu vắng trong tổ ấm của mình. Ai mà không khát khao tiếng nói của cha mẹ, sự ấm áp của gia đình? Người bà nào không mong muốn có con cháu bên cạnh? Vì công việc, bố mẹ không thể về, bà nuôi cháu trong cô đơn. Nhà thơ Anh Thơ cũng đã chia sẻ cùng những cảm xúc ấy:
“Con xa nhà thương nhớ
Mười năm chưa quay lại quê hương
Tu hú ơi, tiếng tu hú
Kêu mãi vang vọng trong vườn xanh?”
Nỗi lòng của chim tu hú “kêu mãi trong vườn xanh” không khác gì nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu ở xứ lạ. Tiếng chim ấy khiến lòng người tràn ngập những kỷ niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc. Những kí ức trôi theo một nhạc điệu tình cảm, chậm rãi đầy ý nghĩa đã đưa ta trở lại tuổi thơ sống bên bà và tình thương của tác giả.
Khi cuộc kháng chiến nổ ra, bố mẹ bận rộn, Bằng Việt đã vẽ lên hình ảnh của bà, người bà yêu quý, đáng kính suốt những năm dài gian khổ đã chăm sóc, dạy dỗ cháu thành người:
“Mẹ và cha đi làm, không thể về
Cháu ở cùng bà, bà dạy cháu nghe
Bà chỉ bảo, bà chỉ dạy.”
Câu thơ đối xứng, nhịp nhàng, hài hòa. “bà”, “cháu” lặp lại nhiều lần “Cháu ở cùng bà…bà chỉ dạy…”, âm điệu trầm bổng như sự gắn bó giữa hai tâm hồn bà - cháu trong tình yêu thương. Cháu lớn lên trong vòng tay yêu thương, sự quan tâm, che chở của bà. Bà đã nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu thành người. Bà không chỉ là bà mà như một người cha, người mẹ, người bạn tri kỉ, là điểm tựa vững chắc cho cháu mỗi khi cần. Một loạt các từ ngữ “bà chỉ bảo”, 'bà chỉ dạy”, vừa thể hiện sâu sắc tình thương rộng lớn, sự quan tâm của bà dành cho cháu, vừa thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà. Bà là người bảo vệ, che chở, chăm sóc cho cháu suốt đời. Bà đã thức khuya dậy sớm “nhóm lửa” làm cho tâm hồn thơ bé của cháu trong cảnh xa mẹ cha trở nên ấm áp. Ngọn lửa mà bà đã thắp lên từ “bếp lửa” ấy đã sưởi ấm và soi sáng cuộc đời đi lên phía trước của cháu. Không chỉ vậy, bà còn “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”. Bà kể những câu chuyện đó để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc.
Bà luôn ở bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc để cháu lớn lên. Nguyễn Duy khi mô tả về bà cũng đã viết:
“Tôi giữa hai bờ hư- thực
giữa bà và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương thầm.”
Bằng Việt và Nguyễn Duy đều tôn trọng, yêu quý người bà khiêm tốn, luôn hiếu thảo, ngoan ngoãn biết vâng lời bà. Tình yêu thương ấm áp, sâu lắng của bà vẫn hiện hữu trong tâm trí cháu dù đã xa bà. Tình yêu và tôn trọng bà của tác giả được thể hiện chân thành và sâu sắc: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là nguồn động viên tinh thần, là sự chăm sóc, che chở cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi lên kỷ niệm tuổi thơ - kỷ niệm gắn bó với tiếng chim tu hú.
Mang trong lòng công ơn của bà, hình ảnh của bà trong lòng cháu - nhà thơ - không bao giờ phai nhạt. Tiếng kêu của chim tu hú hòa quyện với hình ảnh của bà, được biểu hiện dưới dạng nghệ thuật cảm thán và câu hỏi tu từ, khắc sâu nỗi nhớ thương, nỗi lo lắng và kí ức:
Tiếng tu hú ấy sao đắm say!
“Tu hú ơi! Sao không đến bên bà
Kêu mãi trong những cánh đồng xa xăm.”
Âm điệu của vần thơ nhẹ nhàng, tha thiết, sâu lắng, gợi lên những cảm xúc sâu thẳm, bâng khuâng. Tiếng chim như làm dấy lên điều gì đó xúc động khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong. Phải chăng đó là tiếng hòa nhịp của thiên nhiên để an ủi, chia sẻ với cuộc sống cô đơn của bà? Hình ảnh chim tu hú tương tự như tâm trạng của cháu: xa rời gia đình nhưng cháu vẫn có bà bên cạnh, trong khi chim tu hú vẫn cô đơn vì thiếu bà. Câu hỏi tu từ “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” thể hiện sự xúc động, đau lòng khi nhớ về tuổi thơ, về bà. Những dòng thơ như là lời tâm sự, chia sẻ của cháu với bà. Hình ảnh của bà, của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vẫn đọng lại trong không gian mênh mông, tạo nên bức tranh hoài niệm, tình cảm bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
Bằng sử dụng thể thơ tám chữ phản ánh cảm xúc và suy ngẫm cùng với những hình ảnh quen thuộc như bếp lửa, tiếng chim tu hú,... không chỉ tả thực mà còn khơi gợi sự tưởng tượng và tu từ hiệu quả: liệt kê, cảm thán, câu hỏi tu từ, cảm xúc trực tiếp, ám chỉ,... qua đó tác giả đã thể hiện cảm xúc của mình về những năm tháng thơ ấu. Đồng thời, đoạn thơ còn chứa đựng ý tưởng cao đẹp: những gì quý giá nhất trong tuổi thơ của mỗi người luôn có sức lan tỏa, ảnh hưởng lớn đến cuộc sống.
Khi đóng lại cuốn sách, không thể nào quên được hình ảnh của người bà cùng tiếng chim tu hú và mùi khói buổi chiều quê. Đoạn trích của Bằng Việt giống như lời ru của mẹ, những câu chuyện của bà,... từ ký ức của những năm tháng thơ ấu. Những cảm xúc đó được thể hiện một cách chân thực qua từng lời kể của nhà thơ. Và quay về với chính mình, với tình cảm dành cho bà, tôi sẽ không bao giờ quên những ngày tháng ấm áp bên bà dưới mái hiên nhà. Bà ơi! Bà sẽ mãi là người cháu yêu quý nhất, chúng ta hãy trân trọng và biết ơn ông bà, cha mẹ để không hối tiếc, không hối hận về những điều đã qua.
Phân tích khổ thơ 3 trong bài Bếp lửa - Mẫu 8
Bằng Việt là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Các tác phẩm của ông thường viết về những tình cảm đẹp như tình thân, tình yêu quê hương bằng những câu thơ mượt mà, sâu lắng, gợi nhớ. Bài thơ Bếp lửa là một ví dụ cụ thể về tình cảm giữa bà và cháu. Tình cảm ấy được thể hiện qua ký ức thơ ấu của cháu khi sống cùng bà. Trong câu thứ ba của bài thơ, tác giả tái hiện lại dòng ký ức đẹp đẽ ấy.
Ở một đất nước xa xôi, dù rộng lớn nhưng cô đơn, nỗi nhớ nhà như dâng trào trong lòng, kí ức tuổi thơ trở thành nguồn sống nuôi dưỡng tâm hồn nhà thơ:
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Giọng thơ thủ thỉ, kết hợp với lối kể tả vừa ngọt ngào vừa dạt dào xúc cảm, kỷ niệm đã qua lâu rồi như mới như hôm qua. Tám năm cùng bà nhóm lửa, chia sẻ niềm vui nhỏ bé và cả khổ cực của cuộc sống. Dù gian khó, cả hai vẫn ấm áp trong tình yêu thương.
Ký ức về tiếng tu hú và những ngày hè trên cánh đồng quê vẫn đọng lại trong lòng tác giả. Nỗi nhớ quê hương, nhớ bà, nhớ bếp lửa thổn thức trong từng lời thơ.
Tác giả cảm thấy 'tha thiết' khi nghe tiếng chim tu hú và nhớ về người bà yêu thương. Trong hồi ức, tác giả thấy như đang tâm sự với bà: 'Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?'. Dù thời gian trôi đi nhưng kí ức về bà vẫn mãi trong trái tim tác giả.
'Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc'.
Bà là người nuôi dưỡng, bảo ban cháu, bà chính là mẹ, là cha cũng là người thầy bên cháu trong những buổi học đầu tiên. Càng nghĩ về bà, tác giả càng không cầm lòng đọc, tiếng 'thương bà' cất lên trong nỗi nhớ, bên hình ảnh bếp lửa gần gũi mà thân thương. Thương bà một đời khó nhọc, nuôi con, chăm cháu, bên mái nhà tranh xiêu vẹo, bà trở thành điểm tựa vững chắc để cháu được bình an, lớn lên và trưởng thành hơn mỗi ngày.
'Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?'
Thương bà cô đơn, hiu quạnh tác giả buông lời trách nhẹ nhàng chim tu hú, sao cứ bay mãi trên cánh đồng xa, chẳng đến cùng cho bà đỡ buồn thương, hiu quạnh. Phải chăng, trong lời trách móc ấy, tác giả còn tự trách chính bản thân mình lúc này đây chẳng thể về bên bà, cùng bà hỏi han, tâm sự. Vì cuộc sống, vì lí tưởng cháu đành xa bà, khoảng cách xa đằng đẵng, nỗi nhớ bà lại ngày một dài thêm.
Khổ thơ khép lại bằng một câu hỏi tu từ. Trong tâm trí của người cháu xa quê ấy có lẽ đang tìm về những kí ức yêu thương cho thỏa nỗi nhớ nhung bà. Giọng thơ chầm chậm, da diết, bộc lộ nỗi khắc khoải của niềm nhớ, niềm thương. Tự nhiên như thế, đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc bao nỗi niềm khó tả, bao nỗi nhớ của một khung trời tươi đẹp về một kí ức tuổi thơ có bà.
Phân tích về khổ thơ 3 trong bài Bếp lửa - Mẫu 9
Khổ thơ đưa ta trở lại những năm tháng tuổi thơ đầy gian khổ nhưng cũng tràn đầy tình yêu thương của bà. Tám năm đó là thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi bố mẹ tham gia chiến đấu xa nhà, để lại cháu sống trong sự cưu mang, che chở của bà, sớm phải tự lập, phải lo toan:
'Tám năm dài dòng, cháu cùng bà sưởi ấm bên bếp lửa'
Tám năm, một thời gian dài trong ký ức tuổi thơ của cháu. Từ 'dài dòng' như một dấu hiệu của sự kéo dài, nặng nề khi cuộc sống gia đình chỉ còn lại hai bà cháu. Nhưng những năm tháng ấy cũng là những khoảnh khắc đẹp, ấm áp bên bà, cháu được sống trong sự che chở, yêu thương đầy sẻ chia của bà:
'Cháu ở bên bà, bà dạy cháu nghe
Bà chỉ bảo cháu học, chăm chú vào việc học của mình.'
Sử dụng các từ 'bà bảo, bà dạy, bà chăm' để diễn tả lòng yêu thương sâu đậm của bà dành cho cháu. Bà thường kể chuyện cho cháu nghe để nuôi dưỡng tâm hồn của cháu:
'Bà thường kể lại những kỷ niệm về những ngày ở Huế.'
Hình ảnh của người bà hiện lên rất đẹp đẽ: Hiền lành, lòng thương, tính kiên nhẫn, đầy tình yêu thương, bà là điểm tựa vững chắc tinh thần cho cháu, cho con. Bà đã thay thế cha mẹ để chăm sóc, dạy dỗ cho cháu trưởng thành. Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình thân, lòng nghĩa, và công việc giáo dục. Ký ức về những thời kỳ tuổi thơ kết hợp với âm thanh của tiếng chim tu hú:
'Tiếng tu hú vang xa trên những cánh đồng rộng lớn.'
Đó là âm thanh thân thuộc của vùng quê mỗi khi mùa hè về. Tiếng tu hú khiến lòng người xao xuyến, thổn thức, khiến nỗi nhớ lại càng thêm sâu sắc:
'Tiếng chim tu hú thật làm xao xuyến lòng người!'
Tất cả đều hình thành một bức tranh về không gian bao la, cô đơn của hai bà cháu. Cháu yêu thương bà và chia sẻ nỗi vất vả, khó khăn của bà, một cách giản dị, chân thành qua những suy tư:
'Nhìn bếp lửa, lòng ta lại đầy nhớ thương bà!'
Với ước mơ trong trẻo, hồn nhiên:
'Tiếng tu hú đang vang vọng ở đâu đó xa xôi!'
'Chẳng đến bên bà, kêu chi hoài trên những cánh đồng xa vời?'
Phân tích khổ ba bài thơ Bếp lửa xuất sắc nhất
Mỗi người đều có những kỷ niệm tuổi thơ tuyệt vời bên gia đình và bạn bè. Những kỷ niệm ấy có thể phai mờ theo thời gian nhưng sẽ luôn sống dậy mỗi khi có điều gì đó tác động, nhắc nhở. Bài thơ 'Bếp lửa' nói về những kỷ niệm thời thơ ấu bên bà và bếp lửa. Khi tác giả Bằng Việt đi du học ở nước ngoài, ông bỗng nhớ nhà, mùi khói bếp lửa và bà. Khổ thơ thứ ba của bài thơ này đã cho chúng ta thấy những năm tháng nhà thơ ở bên bà.
'Tám năm dài cháu ở bên bà, hai chúng ta nhóm lửa
Tiếng chim tu hú vang trên những cánh đồng xa vời
Khi tiếng tu hú vang, bà còn nhớ không, bà?
Bà thường kể về những ngày ở Huế
Âm thanh của tiếng tu hú thật làm lòng ta xao xuyến!
Tác giả mở ra kỉ niệm tám năm dài bên bà qua tiếng chim tu hú trên những cánh đồng. Trong những năm đó, cha mẹ của nhà thơ bận rộn với công việc nên ông được sống với bà tại Hà Tây. Trong những ngày hè oi bức, tác giả được bà kể chuyện. Đó là những câu chuyện về thời thơ ấu ở Huế, nơi ông sinh ra. Tiếng chim tu hú được nhắc đi nhắc lại như một âm thanh từ quá khứ vang lại. Âm thanh 'xao xuyến' đó liên tục vang vọng trong tai tác giả khiến nỗi nhớ bà, nhớ nhà, nhớ quê hương trong ông dâng trào. Thời gian trôi đi, tám năm chẳng qua là một cái chớp mắt. Những ngày bên bà giờ chỉ còn lại trong ký ức của nhà thơ:
'Cháu sống cùng bà, bà dặn cháu phải nghe
Bà dạy cháu việc, bà chăm sóc cháu học.'
Bà không chỉ kể chuyện cho cháu nghe mà còn làm vai trò của một người cha, người mẹ. Đó chính là chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu trở thành người. Những hành động như 'bảo', 'dạy', 'chăm' thể hiện sự quan tâm, ân cần đầy tình thương của bà dành cho cháu. Đối với đứa cháu bé nhỏ, bà không chỉ là người thân mà còn là cả thế giới, với cháu, thế giới chỉ xoay quanh bà và bếp lửa. Trải qua tám năm dài đầy khó khăn, tác giả có bà luôn ở bên. Do đó, ông rất biết ơn người bà của mình:
'Nhóm bếp lửa nhớ đến bà như thể bà đã gánh vác nhiều gánh nặng vậy,'
Nhà thơ hiểu rõ những khó khăn mà bà phải trải qua trong những năm nuôi nấng mình. Vì vậy, ông diễn đạt tình cảm của mình một cách thẳng thắn qua từ 'thương'. Thương còn cao hơn cả tình yêu, là sự lo lắng, nhớ nhung và quan tâm đến một người. Với Bằng Việt, người cháu ở xa không thể trở về để chăm sóc bà, điều này khiến ông cảm thấy lo lắng và thương tiếc cho bà hơn. Tiếng chim tu hú càng làm đậm thêm nỗi nhớ bà trong lòng tác giả. Ông không thể làm gì hơn ngoài việc bày tỏ suy tư qua câu hỏi tu từ:
'Chim tu hú ơi! Tại sao không đến ở bên cạnh bà?
Kêu mãi trên những cánh đồng xa xa kia?'
Lo lắng cho bà ở nhà một mình, nhà thơ không thể làm gì khác ngoài việc bày tỏ suy tư của mình qua tiếng chim tu hú. Điều đó cũng là cảm xúc chân thành của tác giả, dù ở xa quê nhưng ông vẫn luôn mong muốn có người ở bên để chăm sóc, chia sẻ với bà. Nét thơ chậm rãi, êm đềm cũng khiến người đọc cảm nhận được giọng điệu ôn hòa, tình cảm chân thành, sâu lắng.
Tình yêu và biết ơn bà sâu sắc không chỉ được tác giả thể hiện trong 'Bếp lửa' mà còn trong những tác phẩm khác. Khi bà ra đi, Bằng Việt đã viết 'Lời tạ từ với bà nội'
'Mười năm
Cháu lớn lên, trở thành người.
Rất nhiều điều phải trải qua,
Nhưng chỉ có tình thương bà
Luôn còn mãi'
Từ khổ thơ thứ ba của bài 'Bếp lửa', chúng ta nhìn thấy cuộc sống thời thơ ấu của tác giả với bà và tình cảm của nhà thơ dành cho bà. Đó là tình yêu thương, sự biết ơn và lo lắng của người cháu ở xa cho người bà ở quê nhà. Từ đó, chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ nhà, quê hương trong tâm hồn của người con xa xứ.
Đoạn văn phân tích khổ ba của bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt
Ngọn lửa luôn là biểu tượng thiêng liêng của sự sống, mang lại ánh sáng và ấm áp cho con người. Trong thơ kháng chiến, ngọn lửa trở thành biểu tượng của sức mạnh ý chí và nghị lực, là niềm tin và hy vọng chiến thắng. Nhiều nhà thơ đã lấy cảm hứng từ hình ảnh của ngọn lửa. Bằng Việt cũng vậy với bài thơ “Bếp lửa”. Trong bài thơ, ngọn lửa là kí ức ấm lòng, là niềm tin kỳ diệu giúp cháu vượt qua cuộc đời. Ngọn lửa thể hiện tình yêu thương và niềm tin mà bà truyền đạt cho cháu. Bà là người gìn giữ ngọn lửa, truyền lửa của sự sống và niềm tin cho các thế hệ. Bằng Việt đã sáng tạo hình ảnh ngọn lửa không chỉ là hiện thực mà còn là biểu tượng để thể hiện tình yêu thương và biết ơn của mình đối với người bà thân yêu. Trong hình ảnh của ngọn lửa đó, người đọc cảm nhận được tình yêu gia đình và tình yêu quê hương của nhà thơ.
Viết phân tích khổ 3 của bài thơ 'Bếp lửa'
'Bếp lửa' là một tác phẩm đặc biệt của Bằng Việt. Mỗi khổ thơ trong bài đều chứa đựng những nội dung riêng biệt có thể phân tích độc lập. Ở khổ thứ ba, tác giả tái hiện những kỷ niệm đẹp bên bà suốt 'tám năm ròng'. Đó là một thời gian dài, nhưng hình ảnh cháu và bà bên nhau, bên cạnh bếp lửa vẫn hiện hữu trong lòng tác giả. Tiếng chim tu hú mỗi khi hè về đánh thức những kỷ niệm trong tâm trí ông. Trong suốt thời gian ấy, cha mẹ tác giả bận công việc nên ông được ở với bà, nghe bà 'kể chuyện ngày xưa', 'bảo cháu nghe', 'dạy cháu làm', 'chăm cháu học'. Lời thơ nhẹ nhàng, chậm rãi như đang tâm sự với bạn đọc về một quãng thời gian đã qua rất xa. Sự kết hợp của từ ngữ đã thể hiện sự yêu thương, che chở của bà dành cho cháu. Và người cháu cũng rất hiểu tấm lòng của bà, biết ơn sự vất vả của bà để nuôi nấng cháu lớn.
Viết phân tích khổ 3 của bài thơ 'Bếp lửa'
Bà không chỉ là người gác lửa, ngọn lửa của sự ấm áp, yêu thương. Trong trái tim bà, luôn có một ngọn lửa sẵn sàng sưởi ấm cho cháu trong mọi hoàn cảnh. Bà là người gác lửa làm tan biến cái đói, tạo ra tình thương ngọt ngào trong xóm làng. Ngọn lửa của bà cũng thắp sáng những điều tươi đẹp, trong sáng trong tâm hồn tuổi thơ của cháu. Trái tim và tình yêu của bà đã trở thành một ngọn lửa thiêng liêng bất diệt, sáng lên mỗi bước chân của cháu trên con đường đời. Nhờ có ngọn lửa của bà mà dù cháu có đi đến đâu, dù có gặp bếp lửa nào, niềm vui nào, thì vẫn luôn nhớ đến bếp lửa và ngọn lửa của bà. Hình ảnh bếp lửa cũng là cách tuyệt vời để thể hiện tấm lòng của người bà.