Đề bài: Phân tích sâu sắc về cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang, dựa trên hiểu biết về tác phẩm.
I. Cấu trúc bài phân tích
II. Bài văn mẫu chi tiết
Phân tích chiều sâu cái tôi trữ tình trong bài thơ Tràng Giang
Tip Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ để đạt điểm cao
I. Kế hoạch Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang
1. Khám phá
- Trước thời kỳ cách mạng, thơ của Huy Cận đựng đầy những nỗi buồn của một cái tôi trữ tình bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc sống hỗn loạn.
- Cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian hiện lên thật rõ ràng trong bài thơ Tràng giang.
2. Phần thân
* Tác giả, tác phẩm:
- Huy Cận (1919-2005), tên thật là Cù Huy Cận, vừa là chính trị gia có nhiều năm công tác trong bộ máy nhà nước, vừa là một nhà thơ xuất sắc thuộc phong trào Thơ mới. Những tác phẩm nổi bật như tập Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng đều là minh chứng cho hồn thơ đa dạng của ông.
- Bài thơ Tràng giang, lấy cảm hứng từ cảnh đẹp mênh mông của sông Hồng, kết hợp với cái tôi trữ tình đầy sầu thương, đa cảm, hòa quyện giữa văn hóa truyền thống và tinh thần hiện đại của văn hóa Pháp...(Tiếp theo)
>> Kiểm tra Dàn ý Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang chi tiết tại đây.
II. Bài mẫu Phân tích cái tôi trữ tình trong bài Tràng giang
Trong phong trào thơ mới và trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu và Huy Cận là những nhà thơ lớn, những tên tuổi hàng đầu có đóng góp to lớn cho nền văn hóa quê hương. Hai nhà thơ này, mặc dù thân thiết nhưng lại mang theo mình những nỗi ám ảnh riêng, những tâm sự riêng về cuộc sống. Nếu Xuân Diệu dành cả đời thơ để thể hiện tình yêu với cuộc sống rực rỡ, cháy bỏng, thì Huy Cận trước cách mạng thường chìm đắm trong không gian, với tâm hồn đa cảm, đa sầu. Trong bài thơ Tràng giang, cái tôi trữ tình buồn bã, đầy ám ảnh không gian hiện lên rất rõ ràng, đưa tên tuổi ông trở thành biểu tượng của phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1941.
Huy Cận (1919-2005), tên thật là Cù Huy Cận, vừa là chính trị gia có nhiều năm công tác trong bộ máy nhà nước, vừa là một nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng, thơ của ông đẹp nhưng thường chứa đựng những nỗi buồn sâu sắc trước sự vô định của cái tôi trữ tình giữa cuộc sống rối ren. Sau Cách mạng, thơ của ông vui tươi, lạc quan hơn, tập trung ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, con người, và thiên nhiên. Các tác phẩm nổi bật như Lửa thiêng, Vũ trụ ca, Trời mỗi ngày lại sáng là minh chứng cho sự đa dạng của tâm hồn thơ của Huy Cận.
Trong tập Lửa thiêng, Tràng giang thu hút sự chú ý bằng cảnh sóng nước mênh mông của sông Hồng, hòa quyện với cái tôi trữ tình, đầy sầu thương, đa cảm, xen kẽ chất thơ cổ điển Đường và văn học Pháp hiện đại. Điều này đánh dấu phong cách độc đáo của Huy Cận trước các nhà thơ mới cùng thời, với những tâm sự sâu sắc về cuộc sống, kiếp người, và tình yêu quê hương âm thầm, sâu sắc.
Không cần phải đọc sâu bài thơ, ta cũng cảm nhận được cái tôi trữ tình là nỗi cô đơn lạc lõng. Tâm hồn trẻ tuổi nhưng đa sầu, đa cảm của người thi sĩ trước dòng sông Hồng mênh mang, bầu trời bao la. Nhan đề 'Tràng giang' với âm điệu 'ang' thong thả, mở ra không gian rộng lớn, làm tăng cảm giác lạnh lẽo, cô quạnh trong tâm hồn tác giả, thể hiện tình cảm với quê hương và lịch sử.
Lời đề 'Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài' kết hợp với nhan đề làm nổi bật không gian vũ trụ, chiều rộng của bầu trời và sự dài lâu của dòng sông. Cái tôi cá nhân hiện rõ giữa không gian đó, thức dậy cảm xúc bâng khuâng, những nỗi nhớ vô định của một hồn thơ cô độc giữa trời đất bao la, trước cái lạnh lẽo của sông nước.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.'
Nỗi buồn trong tâm hồn thi nhân lan tỏa ra khắp cảnh vật, giống như Nguyễn Du mô tả cho Kiều bạc mệnh: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Huy Cận, với đôi mắt buồn và cô đơn, chứng kiến sự u buồn ảm đạm của sông Hồng, tạo nên một bức tranh tâm hồn đầy cảm xúc.
Huy Cận tìm kiếm hơi ấm ở một khung cảnh mới, rộng lớn hơn, nhưng có vẻ thất vọng khi không gặp được niềm vui. Khung cảnh mới mang lại sự quạnh quẽ, hoang vắng, tăng cảm giác cô đơn trong tâm hồn thi sĩ.
'Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.'
Hồn thơ Huy Cận thất vọng khi không tìm thấy hơi ấm, ngược lại, cảnh mới lại đem đến sự quạnh quẽ, hoang vắng. Câu thơ 'Lơ thơ cồn nhỏ' tạo cảm giác thưa thớt, bất định. 'Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều' thể hiện sự tĩnh lặng, tịch liêu. Cảnh sông dài, trời rộng, bến cô liêu đều tăng cường cảm giác xa cách, lạnh lẽo trong tâm hồn thi sĩ.
'Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng'
Khổ thơ thứ ba hiện hình ảnh cô đơn lạnh lẽo trong tâm hồn tác giả mạnh mẽ và sâu sắc hơn. 'Bèo' không chỉ là biểu tượng cho kiếp người rẻ mạt, bấp bênh, mà còn là tượng trưng cho tâm hồn cô đơn, lạc lõng giữa dòng đời biến động.
'Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà'
Cuối bài thơ mênh mông vũ trụ mở ra hình ảnh mây và núi, tăng thêm vẻ hùng vĩ. Cánh chim nhỏ trong bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ là biểu tượng của sự cô đơn, lạc lõng, tăng cường cảm giác xa cách, lạnh lẽo trong tâm hồn thi sĩ.