'Trong nhà em có giàu cau,
Trong nhà anh có hàng cây liên phòng.
Ở thôn Đoài hay thôn Đông,
Câu hỏi của thôn Đoài, liệu có ai nhớ về vườn giàu nào không?'.
'Nắng mưa như là bệnh của trời - Tương tư là căn bệnh của tôi đối với người yêu'... Đó là những dòng thơ của Nguyễn Bính. Nhà thơ tự học trở thành thiên tài. Trong tác phẩm 'Thi nhân Việt Nam', Hoài Thanh tường thuật rằng, Nguyễn Bính đã viết gần một nghìn bài thơ khi mới hai mươi tuổi. Ông đã thử nghiệm nhiều loại hình thơ, nhưng thành công nhất vẫn là thể loại thơ lục bát. Trong những bài thơ đó, 'chúng ta cảm thấy như là đang ở giữa vườn cau và vùng quê, là nơi tự nhiên của mình', chúng ta cảm nhận được một điều vô cùng quý báu, đó chính là 'linh hồn cổ kính của dân tộc'.
Các tác phẩm thơ tình của Nguyễn Bính có một phong cách riêng, tươi đẹp như những bài ca dao, mang đậm bản sắc của dân ca... Nhiều câu thơ, đoạn thơ ấy vẫn âm thầm ngân trong lòng chúng ta mãi mãi:
'Trong nhà em có giàu cau,
Trong nhà anh có hàng dừa liên phòng.
Ở thôn Đoài, nhà em; ở thôn Đông, nhà anh.
Có câu hỏi từ thôn Đoài, liệu có ai nhớ về vườn giàu không?'.
Đoạn thơ trích từ bài thơ 'Tương tư', thuộc tập thơ 'Lỡ bước sang ngang' (1940) của nhà thơ Nguyễn Bính. Bài thơ bao gồm 20 câu lục bát; 16 câu đầu mô tả cảm xúc nhớ nhung tương tư, trách móc tôi hờn: 'Tình yêu có thể xa xôi bao nhiêu?'... Bốn câu cuối thể hiện khát khao hạnh phúc của chàng trai đa tình với một người con gái ở cùng làng.
Cấu trúc song hành đối xứng, bốn câu thơ tạo thành hai cặp, kết nối với nhau một cách tự nhiên, như là sự định mệnh của trời giữa nhà em và nhà anh, giữa em và anh, giữa thôn Đoài và thôn Đông, giữa giàu và cau. Giọng thơ như một lời cầu nguyện, ước ao. Từ việc gọi 'nàng': 'Tương tư là căn bệnh của tôi yêu nàng' đã thay đổi thành 'em' gần gũi, thân thiết hơn, yêu thương: 'Ở nhà em, có giàu...'. Sự chuyển từ 'tôi' - 'nàng' sang 'em' - 'anh' làm tăng thêm sự gần gũi, tình cảm và yêu thương.
Giầu và cau đã tồn tại bền vững từ xa xưa, và giờ đây, chúng mới hòa hợp với nhau như một thiên duyên kỳ lạ và đẹp đẽ:
Trong nhà em, có một giàn trầu,
Trong nhà anh, có hàng cây cau nối phòng.'
Sự diễn đạt 'nhà... cố một' làm cho ý thơ trở nên rõ ràng, khẳng định về một sự đồng lòng và sự hiện hữu của một cặp đôi. Mặc dù 'hai thôn chung lại một làng', không có sự cách xa, nhưng 'giàn trầu' của nhà em và 'hàng cau nối phòng' của nhà anh vẫn nằm ở hai bên của không gian. Nhà em và nhà anh chỉ mới là 'một' chưa phải là đôi. Từ 'một' trong hai câu thơ đều mang ý nghĩa sâu sắc, nó thể hiện mong muốn về hạnh phúc của một cặp đôi: duyên trầu - duyên cau cũng là duyên của một tình yêu bền vững, vững chắc và trung thành.
Trong bài thơ 'Tương tư', Nguyễn Bính sử dụng nhiều câu hỏi tu từ để miêu tả nỗi buồn tương tư không lối thoát:
Tại sao bên kia không chuyển sang bên này?
Tình yêu có xa xôi bao nhiêu?
Để cho ai biết, hỏi ai mà người biết cho?
Bao giờ mới thấy bến gặp đò?
Và để kết thúc bài thơ, chàng trai tự đặt câu hỏi trong mơ ước và hi vọng của mình:
'Ở thôn Đoài, có nhớ thôn Đông không?
Thôn Đoài hỏi giầu, có giống thôn nào không?'
Cả một bầu trời nhớ mong, không chỉ riêng tôi nhớ em, anh nhớ em, mà còn có 'Thôn Đoài có nhớ thôn Đông'. Cảnh vật cũng ôm ấp kí ức: 'Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?' Một cách diễn đạt nhỏ nhẹ, dịu dàng, rất tế nhị, đầy duyên dáng. Anh tự hỏi mình, và cũng chia sẻ với em. Câu hỏi nhẹ nhàng kết hợp với câu trúc không hoàn chỉnh thể hiện một tình yêu chân thành về một ước mơ hạnh phúc và tốt đẹp. Ước mơ ấy thật là nhân văn.
Đoạn thơ này thể hiện vẻ đẹp đặc biệt trong thơ tình của Nguyễn Bính. Tác giả đã sáng tạo bằng cách sử dụng các yếu tố văn học dân gian như giầu - cau, thôn Đoài - thôn Đông, và câu thơ lục bát giàu vần điệu nhạc điệu để diễn đạt khát vọng tình yêu hạnh phúc của cặp đôi. Một tình yêu chân thành, gắn bó với quê hương. 'Tương tư' mang theo nỗi buồn, nhưng đoạn kết lại mở ra một cánh cửa hi vọng...