Đề bài: Phân tích Đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
1. Dàn ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
Phân tích Đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo
I. Bài phân tích Đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo (Chuẩn)
1. Khởi đầu
- Giới thiệu đặc điểm tổng quan về tác giả Nguyễn Trãi (đặc tính cá nhân, hành trình cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,...)
- Tổng quan về tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” (bối cảnh sáng tác, điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật,...)
2. Phần chính
a. Đặt ra lập luận về quan điểm về nhân nghĩa và lý tưởng độc lập dân tộc, làm nền móng cho cuộc kháng chiến
- Đề cương về quan điểm về nhân nghĩa:
+ Khám phá ý nghĩa sâu sắc của khái niệm “nhân nghĩa”, với Nguyễn Trãi, nó thể hiện mối liên kết giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý.
+ Nền tảng ý chính về “yên dân” và ý muốn tiêu diệt bạo lực để mang lại cuộc sống ấm no, yên bình cho nhân dân.
- Lập luận về lý tưởng độc lập dân tộc:
+ Kể về lịch sử văn hiến lâu dài, đặc sắc của dân tộc Việt Nam với vùng lãnh thổ đặc biệt và văn hóa độc đáo của cả hai miền Nam Bắc.
+ Phô diễn chiến tích lịch sử vang dội, niềm tự hào của quân và nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống xâm lược.
b. Áp dụng lý luận vào thực tế để làm rõ tội ác của đối phương
+ Phân tích tội ác của kẻ thù, đặc biệt là việc lợi dụng tình hình nội địa rối ren để xâm lược.
+ Nêu bật những chính sách tàn bạo, vô nhân đạo như “nướng dân đen”, “vùi con đỏ”, đẩy nhân dân vào rừng núi độc đáo với nhiều hiểm nguy,...
3. Phần kết
Tóm tắt giá trị về cả nội dung và nghệ thuật trong đoạn 1 và đoạn 2 của bài “Bình Ngô đại cáo” và chia sẻ cảm nhận cá nhân.
II. Bài mẫu Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo
1. Mẫu phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo (Chuẩn)
Nguyễn Trãi, một nhân vật quan trọng không chỉ là vị quan mà còn là nhà văn, danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị, trong đó “Bình Ngô đại cáo” nổi bật như một kiệt tác xuất sắc. Bài cáo được coi là “tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc, đặc biệt là qua đoạn mở đầu, người đọc có thể hiểu rõ luận điệu chính nghĩa của dân tộc và tội ác của kẻ thù.
Đoạn mở đầu của “Bình Ngô đại cáo” đã tả nét chính nghĩa và lý tưởng độc lập dân tộc, là nền tảng quan trọng cho cuộc kháng chiến của quân và dân.
Nhân nghĩa ở chỗ tâm, quân đứng yên
Bạo chúa đến trước, loại bỏ tận gốc.
“Nhân nghĩa” luôn là yếu tố quan trọng trong tư tưởng Nho giáo, thể hiện mối quan hệ giữa con người dựa trên tình thương và đạo lí. Nguyễn Trãi, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng này, đặt nền tảng tư tưởng của mình trên cơ sở của “nhân nghĩa”. Đối với ông, “nhân nghĩa” liên quan chặt chẽ đến việc bảo vệ và đem lại cuộc sống ấm no, bình yên cho nhân dân. Tư tưởng cốt lõi về “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi chính là hướng tới hạnh phúc và an lạc cho nhân dân, làm căn cứ cho việc loại trừ bạo lực.
Bổ sung thêm, tác giả cũng đề cập đến chân lý độc lập của dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử.
Như một đất nước Đại Việt từ xưa
Với văn hiến lâu đời được vang danh
Núi sông chia rẽ biên cương
Phong tục Nam Bắc mang sắc thái khác nhau
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần góp phần xây dựng độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi phái đặt đế vương riêng
Qua mọi biến động mạnh yếu khác nhau
Nhưng những anh hùng trong mỗi thời đại luôn tạo nên hào kiệt.
Tuyển chọn 3 bài văn Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo
Chỉ trong một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã khắc họa một phần của lịch sử văn hiến kéo dài hàng nghìn năm của dân tộc. Đất nước Đại Việt, như nhiều dân tộc khác, có một văn hiến lâu dài, lãnh thổ và văn hóa độc đáo, riêng biệt ở hai miền Nam Bắc. Dân tộc này đã trải qua nhiều triều đại, đồng hành với các triều đại phong kiến của phương Bắc. Bằng cách đặt các triều đại của dân tộc lên ngang tầm với các triều đại Trung Quốc, tác giả không chỉ khẳng định nền độc lập và truyền thống của dân tộc mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Thêm vào đó, để củng cố chân lý độc lập, Nguyễn Trãi kể về những chiến công vang dội, niềm kiêu hãnh của quân và dân Việt Nam trong lịch sử.
Lưu Cung, mặc tham công nhưng đành phải thất bại
Triệu Tiết, thích lớn nhưng lại phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử, thế giới nên Toa Đô phải đầu hàng
Sông Bạch Đằng, Ô Mã bại trận, họ đều chết thảm.
Dựa trên cơ sở lý luận đã đề cập, tác giả trong phần tiếp theo của bài cáo soi chiếu lý luận đó vào thực tế để đánh bại tội ác dã man của kẻ thù. Bọn giặc đã tận dụng tình hình nội bộ hỗn loạn để xâm lược nước ta, lợi dụng lòng oan hận trong dân để hỗn loạn trong nước.
Nhân họ Hồ gây ra phiền hà
Dân ta trong nước oán hận chất ngất
Quân cuồng minh tận dụng cơ hội gây ra tai ương
Nhóm gian tà, bán nước, tìm cách vươn lên.
Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi xâm lược nước ta, chúng tiếp tục thực hiện hàng loạt chính sách tàn bạo, không nhân đạo.
Lửa hung dữ nướng dân trắng đen
Vùi người thơ dại dưới nền đất tăm tối.
Bọn giặc tàn nhẫn, hành động ác độc, giết hại vô tội dân lành, kể cả trẻ thơ. Bằng nghệ thuật đảo ngữ, từ “nướng” và “vùi” nổi bật, làm tăng sự tàn bạo của chúng. Chúng còn đẩy nhân dân vào những khu vực nguy hiểm, nơi khó lòng trở về.
Người bị bắt ép xuống biển, lưng chìm trong sóng ngọc, đối mặt với cá mập, giữa dòng nước hung dữ.
Người bị buộc phải vào núi tìm vàng, khốn khổ giữa rừng sâu, nước độc.
Tội ác của giặc còn là việc cướp bóc của cải, áp thuế vô lý, và làm hại môi trường, phá hủy cảnh đẹp thiên nhiên của đất nước.
Đào lưới lấy sản, bắt chim trên bẫy, mọi nơi đều lướt bẫy chết người,
Quấy rối nhân dân, dùng bẫy hươu đen, khắp mọi nơi đặt đầy mồi.
Kết thúc đoạn thứ hai, tác giả tài ba mô tả hình ảnh ám ảnh về tội ác của giặc Minh trên đất nước.
Trúc Nam Sơn không đủ vô hạn để ghi hết tội ác thay thế,
Nước Đông Hải không đủ sạch để làm tan mùi ô nhục.
Nguyễn Trãi sử dụng “trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” để tả nỗi vô tận của tội ác kẻ thù, thể hiện không thể diễn đạt hết, không thể mà sạch bớt được tội ác. Đối diện với những hành động đó, dân tộc ta không có lựa chọn nào khác, chỉ có đứng lên và chiến đấu.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Chẳng ai nói thần nhân nào có thể chịu đựng được?
Tóm lại, qua hình ảnh thơ độc đáo và ngôn ngữ sắc sảo, đoạn thơ mở đầu của 'Bình Ngô đại cáo' không chỉ làm nổi bật luận đề chính nghĩa, chân lí độc lập của dân tộc mà còn vạch ra những tội ác không thể tha thứ của kẻ thù.
2. Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo, mẫu số 2:
Khi nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc trong văn học trung đại, không thể không kể đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận xuất sắc, đặc biệt với tác phẩm nổi tiếng 'Bình Ngô đại cáo'. Các tác phẩm chính luận này thể hiện lòng yêu nước, tình thương dân tộc của tác giả.
Ngay từ câu đầu tiên của bài cáo đã hé lộ tư tưởng nhân nghĩa này:
'Làm cho lòng nhân nghĩa yên bình, trước hết phải loại bỏ bạo lực quân đội'
'Nhân nghĩa' biểu hiện lòng thương yêu, hành động vì lợi ích cộng đồng. Bên cạnh đó, nó còn là sự tôn trọng lẽ phải, bảo vệ lẽ phải. Nguyễn Trãi, dưới tác động của tư tưởng Nho giáo, đặt 'nhân nghĩa' cao quý, liên kết với việc bảo vệ sự an bình và no ấm cho nhân dân. Tình yêu thương lẫn nhau, chiến đấu vì đất nước là ứng dụng thực tế của tư tưởng này. Đối mặt với giặc Minh xâm lược, Nguyễn Trãi hướng tư tưởng nhân nghĩa của mình vào cuộc chiến chống giặc, vì một cuộc sống hạnh phúc, không khổ cực. Tư tưởng nhân nghĩa của ông không chỉ giới hạn ở mối quan hệ con người với con người mà còn mở rộng ra là mối quan hệ giữa các dân tộc.
Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo để hiểu rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
Để chứng minh chủ quyền của quê hương, tác giả đã trình bày những bằng chứng rõ ràng và thuyết phục:
'Như vậy, từ xa xưa đất nước Đại Việt ta
Đã xây dựng văn hiến lâu dài, bền vững.
Núi sông, biên giới tự nhiên chia rõ
Văn hóa Bắc Nam khác biệt độc đáo.
Các triều đại như Triệu, Đinh, Lí, Trần
Đã tạo nền độc lập vững chắc,
Không kém cạnh với Hán, Đường, Tống, Nguyên
Mỗi triều đại tự xưng bản lĩnh ở một hướng.
Dù mạnh yếu có thay đổi qua thời gian
Nhưng hào kiệt của dân tộc luôn tồn tại'.
Nền văn hiến lâu dài được hình thành từ hàng nghìn năm lịch sử làm nên bản sắc riêng biệt của dân tộc. Sự phân chia về lãnh thổ, núi sông, và phong tục tập quán đặc trưng của hai miền Bắc và Nam là minh chứng rõ ràng cho chủ quyền của đất nước. Nguyễn Trãi còn đặt triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên, thể hiện lòng tự hào và tự tôn sâu sắc của dân tộc.
Ông tái hiện những chiến công hùng vĩ của Đại Việt như một cách khẳng định sức mạnh và thất bại đau đớn của kẻ thù:
'Lưu Cung tham công gặp thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải hy sinh.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Quá khứ được xem xét,
Chứng cớ vẫn lưu giữ'.
Các tướng lĩnh của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị những tướng lĩnh xuất sắc của chúng ta đánh bại vì 'tham công', 'thích lớn', và họ phải chịu hậu quả nặng nề. Những sự kiện này được lưu lại trong sử sách để truyền đạt qua các thế hệ. So sánh và liệt kê các triều đại phong kiến của nước ta với phương Bắc cùng với ngôn ngữ hùng tráng và trang nghiêm trong đoạn đầu tiên của bài cáo rõ ràng thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.
Tác giả phơi bày và lên án những tội ác mà quân Minh đã gây ra khi xâm lược đất nước ta:
'Nhân họ Hồ gây ra sự phiền muộn,
Trong lòng dân nước trỗi dậy oán hận.
Quân Minh cuồng loạn tận dụng thời cơ gây hại,
Bọn gian tà đâm đầu vào việc bán nước mong đạt lợi'.
Quân Minh đã tận dụng 'sự phiền hà' của nhà Hồ để nhanh chóng xâm chiếm đất nước ta. Bước chân xâm lược của chúng đe dọa, làm tổn thương nhân dân, gây ra lòng oán trái chủ, căm ghét. Bọn gian tà cũng lợi dụng tình hình này, chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân, hỗ trợ kẻ thù xâm lược mà không có tình yêu quê hương, tình thương nhân dân.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác khủng khiếp:
'Nướng dân trên lửa tàn phá đen,
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.
Dối lòng dối trời nghìn mưu kế,
Gieo binh kết oán dài hai chục năm.
Bại nhân nghĩa nát đất trời,
Thuế khóa nặng đèm sạch non sông'.
Nhân dân ta phải chịu đựng nỗi khổ cực, lầm than dưới bước chân xâm lược của chúng. Chúng thực hiện hành động 'nướng', 'vùi' nhân dân trên ngọn lửa và 'dưới hầm tai vạ'. Chúng kiểm soát nhân dân bằng thuế vô lý, kế sách lừa dối và hành động tra tấn dã man, tàn bạo. Những người dân vô tội phải gánh chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề từ giặc Minh.
Chúng không chỉ phá hủy môi trường sống tự nhiên của dân tộc ta, mà còn gây tổn thất nặng nề:
'Người bị đẩy xuống biển, lưng mò ngọc, kinh hoàng cá mập, thương đau luồng nước.
Kẻ bị giam vào núi, bị đày cát tìm vàng, thất thường rừng sâu, nước độc.
Rải lưới vô tội, bắt chim trả giá, khắp nơi đặt bẫy hươu đen'.
Chịu sự chiếm đóng của quân Minh đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối diện với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung dữ của chúng. Chúng độc ác đến nỗi ép dân đen 'đi xuống biển, lưng mò ngọc', 'đi vào núi để đào cát tìm vàng', bắt nhân dân ta vào những khu vực đầy rủi ro, đe dọa tính mạng để săn tìm những vật phẩm có giá trị cho quân Minh hung dữ. Nhân dân ta trở thành nô lệ cho kẻ thù và là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập hung dữ. Chúng xâm lược để tham vọng vơ vét tất cả những sản vật quý hiếm như chim trả, hươu đen để dùng làm áo và đệm, làm nguyên liệu cho vị thuốc bổ. Thực sự, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh là rất lớn.
Không chỉ khiến dân ta đối mặt với nguy hiểm, tử vong mà chúng còn 'tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ'. Do quân Minh 'ăn no chưa đủ', xây nhà dựng đất liền miên, làm cho nhân dân ta phải trải qua những thời kỳ đau khổ, đầy bi thương:
'Gánh nặng những đau khổ phu phen
Đau lòng cả nghề canh cửi'.
Không đủ từ ngôn để diễn đạt hết tội ác của quân Minh bởi vì:
'Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không dứt mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai nói thần nhân chịu nổi'?
Dù là trúc Nam Sơn hay nước Đông Hải, cảnh ác của quân xâm lược đều không thể được mô tả hết và không thể làm sạch mùi tanh của độ dơ bẩn. Hành động tàn bạo, dã man của chúng đã làm cho cả thiên địa cũng không thể dung tha, chứ không chỉ là con người. Câu hỏi cuối cùng của đoạn thứ hai nhấn mạnh một lần nữa tội ác của kẻ thù. Không thể tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, hủy hoại cả cây cỏ của đất nước mình.
Sự đối lập giữa những người dân vô tội bị lấy mất mọi thứ một cách tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính, cùng với giọng điệu đầy tình cảm, đanh thép và lý luận sắc bén, đã phản ánh tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là một tuyên ngôn hùng biện, lên án những hành động dã man của quân Minh. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho sự đau đớn, sự áp bức, sự cướp bóc, và bóc lột mà nhân dân ta phải chịu đựng trong suốt thời kỳ 'Gây binh kết oán trải hai mươi năm'.
3. Phân tích đoạn 1,2 Bình ngô đại cáo, mẫu số 3:
Dưới đây là bài văn mẫu phân tích đoạn 1, 2 của Đại cáo Bình Ngô - một tác phẩm xuất sắc được Mytour tổng hợp và biên soạn. Ngoài ra, bạn cũng có thể tham khảo các bài văn mẫu khác như phân tích tác phẩm Đại cáo Bình Ngô được chia sẻ trên Mytour.
Xem thêm các bài văn mẫu và soạn văn Đại cáo Bình Ngô trên Mytour
- Giới thiệu về Nguyễn Trãi và Đại cáo Bình Ngô - một tác phẩm vĩ đại từ thế kỷ trước
- Soạn bài Đại cáo Bình Ngô, phần Tác phẩm
- Soạn bài Đại cáo Bình Ngô, phần Tác giả