Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Nhắc đến những nhà văn chính luận lỗi lạc của văn học trung đại chúng ta không thể nào không nhắc đến Nguyễn Trãi. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận kiệt xuất với các tác phẩm: 'Quân trung từ mệnh tập', các chiếu biểu viết dưới thời nhà Lê và tiêu biểu nhất là tác phẩm Bình Ngô đại cáo. Các áng văn chính luận này đã thể hiện được lòng yêu nước, thương dân của tác giả.
Ngay câu đầu bài cáo đã bộc lộ tư tưởng nhân nghĩa ấy:
'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
'Nhân nghĩa' là tấm lòng thương yêu người, là những hành động vì lợi ích của nhân dân, cộng đồng. Bên cạnh đó, 'nhân nghĩa' cũng là sự tôn trọng lẽ phải, bênh vực lẽ phải. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, 'nhân nghĩa' là 'yên dân', 'trừ bạo', cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Giữa con người phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu để bảo vệ đất nước, thoát khỏi đời sống khổ cực, lầm than. Để được như vậy thì phải diệt trừ những kẻ bạo tàn, những thế lực xâm lược hung hãn, đó chính là giặc Minh đang xâm chiếm đất nước ta lúc bấy giờ. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng xác đáng và vô cùng thuyết phục:
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có'.
Nền văn hiến đã có từ lâu đời và được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc. Cùng với đó là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông và các phong tập tập quán đặc trưng của hai miền Nam, Bắc đã thể hiện đất nước ta là một đất nước có chủ quyền, có các anh hùng hào kiệt luôn cống hiến, chiến đấu hết mình để bảo vệ non sông. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nếu các triều đại phương Bắc phát triển hưng thịnh thì các triều đại Việt Nam cũng phát triển hùng mạnh không kém. Điều đó đã thể hiện lòng tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:
'Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi'.
Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì 'tham công', 'thích lớn' nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.
Ông đã vạch trần, tố cáo những tội ác mà quân Minh xâm lược thực hiện với nhân dân ta:
'Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh'.
Quân Minh đã lợi dụng 'chính sự phiền hà' của nhà Hồ để chớp lấy thời cơ xâm chiếm nước ta. Bước chân xâm lược của chúng giày xéo lên đất nước ta khiến nhân dân vô cùng oán hận, căm thù. Cũng lợi dụng điều đó mà bọn gian tà chỉ biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho kẻ thù xâm lược để mang lại những vinh hoa, lợi lộc cho bản thân mà không chiến đấu vì nhân dân, tổ quốc.
Giặc Minh đã gây ra những tội ác không thể dung tha:
'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi'.
Nhân dân ta phải chịu cảnh khổ cực, lầm than dưới gót chân xâm lược của chúng. Chúng đem 'nướng', 'vùi' nhân dân ta trên ngọn lửa và 'dưới hầm tai vạ'. Chúng cai trị nhân dân ta bằng các loại thuế vô lí, các kế sách lừa lọc nham hiểm và cả sự tra tấn dã man, hung bạo. Những người dân vô tội phải chịu sự áp bức, bóc lột nặng nề của giặc Minh.
Không chỉ vậy, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta:
'Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt'.
Chịu sự đô hộ của quân Minh cũng đồng nghĩa với việc nhân dân ta phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo và những hành động hung hãn của chúng. Chúng vô nhân tính đến mức bắt ép dân đen 'xuống biển dòng lưng mò ngọc', 'vào núi đãi cát tìm vàng', bắt nhân dân ta đến những nơi nguy hiểm luôn rình rập, đe dọa đến tính mạng để tìm kiếm những vật có giá trị cho quân cuồng Minh. Nhân dân ta bị biến thành nô lệ cho kẻ thù và cũng là miếng mồi ngon cho các loài động vật cá mập, thuồng luồng hung dữ. Chúng xâm chiếm nước ta để vơ vét hết sản vật quý hiếm như chim trả dùng để làm áo và đệm, hươu đen dùng để làm vị thuốc bổ. Có thể nói, tham vọng xâm lược nước ta của giặc Minh vô cùng lớn.
Không chỉ đẩy dân ta vào nguy hiểm, chết chóc mà chúng còn 'tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ'. Do quân Minh 'máu mỡ bấy no nê chưa chán', xây nhà đắp đất liên miên nên nhân dân ta rơi vào cảnh ngộ đầy bi thương, khốn khổ:
'Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi'.
Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:
'Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được'?
Ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch mùi dơ bẩn của quân xâm lược. Những hành động tàn ác, dã man của chúng khiến trời đất cũng không thể dung tha huống chi là con người. Câu hỏi tu từ cuối đoạn thứ hai đã nhấn mạnh thêm một lần nữa tội ác của kẻ thù. Chúng ta không thể nào tha thứ cho những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn hại cả cây cỏ thiên nhiên của đất nước mình.
Hình ảnh đối lập giữa những người dân đen vô tội bị bóc lột tàn bạo và kẻ thù vô nhân tính cùng giọng điệu cảm thương, đanh thép, lí luận sắc bén đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Hai đoạn đầu của bài cáo là bản cáo trạng hùng hồn tố cáo những hành động dã man của quân Minh. Đó là minh chứng tiêu biểu nhất cho sự khổ cực, áp bức, sự cướp bóc, bóc lột trắng trợn mà nhân dân ta phải gánh chịu trong suốt thời gian chúng 'Gây binh kết oán trải hai mươi năm'.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị, quân sự tài ba, mà còn là nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc. Khi nhắc đến ông, ta nghĩ ngay đến tác phẩm nổi tiếng “Bình ngô đại cáo”. Đây là áng thiên cổ hùng văn bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Nhan đề Bình Ngô đại cáo gợi cho ta nhiều suy nghĩ. Bình có nghĩa là dẹp yên, Ngô là giặc Minh. Đại cáo là bài cáo lớn về những sự kiện lớn của đất nước. Từ nhan đề đã gợi ra một tâm thế hào hùng.
Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo để thấy tư tưởng nhân nghĩa là nội dung xuyên suốt cả bài thơ, được ông thể hiện rõ ràng, đầy đủ và sâu sắc. Ta có thể thấy ngay tư tưởng nhân nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc được thể hiện ngay ở đoạn 1 của bài thơ.
Tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở hai câu đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Ông đã khẳng định đanh thép về định nghĩa tư tưởng nhân nghĩa. Theo phạm trù của Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lý. Việc nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của các cuộc khởi nghĩa. Việc nhân nghĩa là vì con người, vì lẽ phải. Theo quan niệm của Nguyễn Trãi, kế thừa từ tư tưởng Nho giáo, nhân nghĩa là “yên dân” – làm cho cuộc sống của người dân yên ổn, hạnh phúc. Lấy dân làm gốc là quy luật tất yếu bao đời nay. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi.
Việc nhân nghĩa còn có nghĩa là trừ bạo, giúp dân trừng trị những kẻ hành hạ, cướp bóc, bóc lột, mang lại bình yên, no ấm cho nhân dân. Nói rộng ra trừ bạo chính là chống lại giặc xâm lược. Ông đã nêu rõ ta là chính nghĩa, còn địch là phi nghĩa. Ông đã vạch trần sự xảo trá của giặc Minh trong cuộc xâm lược này. Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt, để mang đến cho nhân dân thoát khỏi cuộc sống lầm than, khổ cực, đem lại no ấm cho nhân dân.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm quyết liệt. Đây không chỉ là mối quan hệ nằm trong phạm vi giữa con người với con người mà mở rộng ra là mối quan hệ giữa dân tộc với dân tộc
8 câu thơ tiếp theo ông đã khẳng định chủ quyền dân tộc, giá trị của tự do bằng việc nhắc lại trang sử hào hùng của dân tộc ta một cách đầy vẻ vang, tự hào.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Ông dẫn chứng xác thực đầy thuyết phục. Nước Đại Việt ta đã hình thành từ trước với nền văn hiến đã có từ lâu đời, tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử. Ở đây ông dùng từ “xưng” để thể hiện sự tự hào, khẳng định chỗ đứng, vị thế của dân tộc ta.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triều , Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng vương một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định lãnh thổ và chủ quyền độc lập, ông nhắc đến văn hiến, lịch sử, phong tục, tập quán và nhân tài đất nước. Như vậy, đây chính là những yếu tố mới để tạo thành một quốc gia độc lập. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn, đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ông khẳng định lãnh thổ “Núi sông bờ cõi đã chia”, không kẻ nào được xâm phạm, chiếm lấy. Hơn nữa, phong tục tập quán, văn hóa mỗi miền Bắc Nam cũng khác, không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.
Đặc biệt khi nhắc đến các triều đại trị vì xây nền độc lập, ông đã đặt các triều đại Triều, Đinh, Lý, Trần ngang hàng với “Hán, Đường, Tống Nguyên của Trung Quốc vừa có ý liệt kê, vừa có ý đối đầu. Điều đó cho thấy lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, ý thức về tự tôn, yêu nước cực kỳ lớn của ông. Và ở triều đại nào, thời nào thì hào kiệt đều có. Đây vừa thể hiện lòng yêu nước, tự hào vừa răn đe đối với quân xâm lược muốn thôn tính Đại Việt. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia. Đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, điều đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của ông.
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Ông đã dùng biện pháp liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ đi ngược lại với chân lý. Những dẫn chứng của ông từ các đời vô cùng thuyết phục. Lưu Cung là vua Nam Hán từng thất bại vì tham lam muốn thu phục Đại Việt; Triệu Tiết tướng của nhà Tống đã thua nặng khi cầm quân sang đô hộ nước ta, Toa Đô, Ô Mã… là các tướng của nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng tại nước ta khi cầm quân sang xâm lược… “Chứng cớ còn ghi”, không thể chối cãi được. Ông đã mang lại lời cảnh cáo, răn đe đanh thép với chứng cớ đầy đủ, thuyết phục, rõ rành rành đối với kẻ phi chính nghĩa khi xâm phạm đến lãnh thổ của nước ta.
Với giọng văn đĩnh đạc, hào hùng, lý lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt cân xứng, song đôi của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của nước Đại Việt.
Đoạn mở đầu của Bình ngô đại cáo như một khúc dạo đầu đầy hào sảng, hào hùng về chủ quyền Tổ quốc. Những vần thơ đanh thép, những dẫn chứng xác thực, lý lẽ chặt chẽ được ông đưa ra đã mang lại giá trị lớn về tinh thần dân tộc mạnh mẽ, về độc lập chủ quyền dân tộc, về tư tưởng lấy dân làm gốc, ắt sẽ chiến thắng… Bình ngô đại cáo là áng hùng thi được ví như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc. Qua những vần thơ của Nguyễn Trãi, ta càng thêm tự hào về truyền thống, lịch sử, văn hiến của đất nước.
Mẫu số 3
Lời giải chi tiết:
Từ xưa đến nay, ngoài Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự độc lập và chủ quyền của đất nước, còn có hai bài văn hùng văn cổ đại khác được xem như hai tuyên bố độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là bài Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi thời đại và hoàn cảnh khác nhau, những bản tuyên ngôn này vẫn mang giá trị tư tưởng tiến bộ và chính xác. Nếu Nam Quốc Sơn Hà đã khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh thể hiện quyền con người, thì Bình Ngô Đại Cáo lại nêu rõ một khía cạnh khác. Đó là tư tưởng phải chăm sóc cho dân, yêu dân và đàn áp bạo loạn, để dân được sống yên bình, hạnh phúc. Điều này được thể hiện qua đoạn 1 của tác phẩm.
Tác giả đã coi 'nhân nghĩa' không chỉ là sự thương yêu và giúp đỡ của con người cho nhau, mà còn nâng cao ý nghĩa sâu sắc và rộng lớn hơn, 'việc nhân nghĩa' ở đây chính là làm việc vì dân, mong dân sống yên bình, an ổn, hạnh phúc, ấm no. Việc nhân nghĩa là phải quan tâm đến dân, đất nước, phải làm việc có ý nghĩa vì lợi ích của dân, dùng dân làm căn cứ, hành động cũng vì lợi ích của dân. Vì vậy, để làm đúng theo tư tưởng nhân nghĩa vào thời điểm đó, trước hết phải chấm dứt bạo loạn, phải đánh bại kẻ thù trước khi quan tâm đến những vấn đề khác. 'Quân phải bị trừ bạo trước khi nghĩ đến hạnh phúc của dân', khi bờ cõi yên bình, lãnh thổ không còn bị kẻ thù xâm lược, dân mới cảm thấy an tâm để lao động, sản xuất, phát triển đất nước. Đó là tinh thần vĩ đại, tinh thần cao quý nhất của dân tộc, một tinh thần chính nghĩa bắt nguồn từ lòng yêu thương và tấm lòng chân thành dành cho dân Việt.
Sau tư tưởng nhân nghĩa ấy, Nguyễn Trãi tiếp tục khẳng định nền văn hiến tuyệt vời từ các thời kỳ của con người Việt:
'Đất nước Đại Việt ta từ xưa
Vẫn đề cao văn hiến đã lâu
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần là những thời kỳ xây dựng nền độc lập
Và cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên tự xưng vương một phương'
Đất nước ta có truyền thống văn hiến từ xa xưa, có phong tục, tập quán riêng, và nét đẹp của truyền thống và văn hóa đã được người Việt xây dựng từ thời kỳ xa xưa như Triệu, Đinh, Lí, Trần. Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời với lòng tự hào mà còn mạnh mẽ khẳng định sự bình đẳng, độc lập của con người và đất nước ta so với các triều đại của phương Bắc 'Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên tự xưng vương một phương.
Truyền thống đấu tranh dũng cảm, không khuất phục của các triều đại Đinh Lý Trần Lê không kém cạnh các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên. Đại Việt ta mặc dù nhỏ bé về lãnh thổ nhưng tinh thần không hề nhỏ, vẫn xưng vương, bờ cõi độc lập, mạnh mẽ, không chịu khuất phục dưới quyền uy của người khác, tấm lòng Đại Việt cũng vì thế mà lớn lên không ngừng. Đất nước Việt cũng có những anh hùng bốn phương, nổi danh trong lịch sử, những tài năng về mặt chiến thuật, mưu lược, văn võ đều xuất sắc. Những yếu tố này đã góp phần xây dựng một Đại Việt hùng mạnh, luôn chiến thắng trong mọi trận đấu:
'Lưu Cung tham công phải thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa đã chứng minh, bằng chứng vẫn còn ghi lại'
Trước sự xâm lăng bạo tàn của kẻ thù, tinh thần chiến đấu của Đại Việt không ngừng, quyết tâm hơn bao giờ hết, những chiến công oanh liệt, hùng mạnh được Nguyễn Trãi mô tả chứa đựng niềm tự hào. Những kẻ kiêu ngạo, tự phụ, làm những điều phi nhân tính cuối cùng cũng phải nhận trái đắng từng thất bại, từ Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã, ... đều phải hối hận vì những thất bại đó. Qua những câu thơ, Nguyễn Trãi thể hiện niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa trước hành động bạo tàn của kẻ thù. Cuối cùng, chính nghĩa vẫn là nguồn ánh sáng cao quý soi đường cho con đường đấu tranh của dân tộc.
Đoạn thơ ngắn này không chỉ nêu lên được tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời mà còn khẳng định nền độc lập, tổng kết những chiến công hùng hổ của dân tộc. Ngôn ngữ khảng khái, bốn câu thơ hùng hồn, mạnh mẽ, cùng với tấm lòng rộng lớn dành cho dân và nước của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học xuất sắc, trở thành một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.
Mẫu số 4
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà chính trị, quân sự tài ba, đã có những đóng góp quan trọng trong việc đánh bại quân Minh và đem lại thời kỳ thái bình cho Đại Việt. Ông cũng là một nhà văn, nhà thơ với tác phẩm rất phong phú bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông gồm Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập… Trong đó, Đại cáo bình Ngô được coi là tác phẩm vĩ đại không thể lỗi thời, là bản tuyên ngôn đầy sức mạnh về độc lập và vị thế của dân tộc. Trong tác phẩm này, Nguyễn Trãi nêu rõ ý tưởng về nhân nghĩa:
Việc quan trọng là bảo vệ cuộc sống của nhân dân
Chống lại kẻ thù trước khi chúng tàn phá hòa bình
Ý tưởng về nhân nghĩa là trọng tâm của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu cao cả và thiêng liêng của cuộc kháng chiến Lam Sơn. Nguyễn Trãi khẳng định rằng việc bảo vệ cuộc sống hạnh phúc, yên bình cho dân là cơ sở quan trọng để đất nước phát triển. Ông đưa vào tác phẩm ý tưởng này để khẳng định rằng 'lấy dân làm gốc' là nguyên tắc quan trọng không thể thiếu trong mọi thời đại, đó là tài sản, là sức mạnh cơ bản của một quốc gia.
Nguyễn Trãi đã có tầm nhìn và khai sáng thành công vấn đề nhân nghĩa này. Ý tưởng về nhân nghĩa tiếp theo là đối phó với bạo lực, đặc biệt là quân Minh, những kẻ xâm lược tàn bạo. Chúng hành động thẳng tay, cướp bóc và gieo rắc đau khổ cho dân. 'Bảo vệ dân', 'đối phó với bạo lực', hai ý tưởng này có liên kết mạnh mẽ, bổ sung lẫn nhau. Việc quan tâm đến hạnh phúc, yên bình cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu chống lại kẻ thù, diệt trừ những kẻ hung ác, cụ thể là quân Minh, làm tổn thương dân.
Điều quan trọng là ý tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không chỉ là một nguyên tắc đạo đức mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, giữ gìn yên bình. Hơn nữa, ông nâng cao ý tưởng này thành một chân lý. Ông không chỉ nói về nhân nghĩa một cách trừu tượng mà thông qua những câu ngắn gọn ông khẳng định ý tưởng cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Ông cũng kết nối nhân nghĩa với việc bảo vệ chủ quyền của quốc gia, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập của dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Lịch sử từ Triều, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập
Đến những triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên tự xưng là đế chủ một phương.
Mặc dù mạnh yếu có sự thay đổi,
Nhưng nhân tài luôn có.
Khi nhấn mạnh điều này, Nguyễn Trãi đã phát triển một quan niệm hoàn chỉnh nhất về các yếu tố tạo nên một quốc gia độc lập. So với 'Nam Quốc Sơn Hà' của Lý Thường Kiệt, Đại cáo bình Ngô mang lại cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về nền độc lập và ý tưởng tiền tuyến. Hơn nữa, ông sử dụng việc so sánh giữa Đại Việt và Trung Quốc: về địa lý, phong tục - hai quốc gia bằng nhau, về lịch sử - bốn triều đại của chúng mạnh mẽ, về nhân tài - mỗi triều đại có nhân tài riêng biệt. Điều này cho thấy lòng tự hào, tư cách độc lập của dân tộc và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của quốc gia.
Xuyên suốt tác phẩm, Nguyễn Trãi sử dụng nhiều từ ngữ để nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác”, tất cả đã làm tăng sức thuyết phục. Điều nghệ thuật thành công nhất của tác phẩm là thể hiện được những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Tác phẩm này giúp bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc và quyết tâm bảo vệ độc lập, chủ quyền của quốc gia.