Mẫu số 1
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi là một người sống vì dân, vì nước, suốt cuộc đời ông luôn là một con người có lòng nhân hậu, ông đã tài năng khi làm rõ âm mưu xâm lược của quân Minh, đồng thời cũng chỉ ra những hành động tàn ác của bọn giặc đối với dân tộc ta, đó được coi là số phận để khiến con người ta phải chịu khổ đau, thời gian không thể làm mờ đi những giá trị vĩnh hằng. Sự tồn tại của Nguyễn Trãi và đất nước Việt Nam là bằng chứng rõ ràng cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là một nhà văn chính trị tài ba trong mọi thời đại, thì Bình Ngô Đại cáo lại là một tác phẩm văn học bất tử của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
Nguyễn Trãi đã ghi dấu của mình vào tâm hồn của dân tộc. Số phận đã làm cho con người ta phải chịu khổ đau, thời gian không thể xóa nhòa đi những giá trị vĩnh hằng. Sự tồn tại của Nguyễn Trãi cùng với đất nước Việt Nam là bằng chứng sống động cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là một nhà văn chính trị tài ba trong mọi thời đại, thì Bình Ngô Đại cáo lại là một tác phẩm văn học bất tử của ông trong lịch sử văn học Việt Nam.
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Quân Minh lợi dụng việc nhà Hồ chiếm ngôi nhà Trần, đã huy động một quân đội gồm hai mươi nghìn binh lính xâm lược nước ta. Quân Minh phân thành hai phái theo dòng sông Hồng kéo xuống. Trong hai mươi năm, chúng áp bức nước ta bằng vô số chính sách, chiến lược khác nhau.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Bọn giặc Minh xâm lược nước ta, dày công âm mưu từ lâu, nhưng lại tỏ ra sợ hãi trước ý kiến của thế gian, nên mới nghĩ ra chiêu bài 'phù Trần diệt Hồ' để lừa gạt dư luận, lừa dối dân ta, từ đó có lý do để dẫn quân sang xâm lược. Thực ra thì bọn chúng bất nhân, bất nghĩa thì không có việc gì không thể làm được. Đã thế, trong nước, lòng dân ta tràn ngập oán hận, 'Bọn gian tà bán nước cầu vinh', bán cả danh dự của dân tộc để đổi lấy ít lợi ích nhỏ nhặt, mở cánh cửa cho giặc xâm nhập và hủy diệt dân ta, không có ai có thể nhẫn tâm đến như vậy.
Từ khi giặc Minh đổ vào, dân ta không có một ngày nào được sống yên bình, chúng giết hại dã man, âm mưu diệt trừ những người chống đối, không từ mọi cách để làm tổn thương, khiến dân ta trở thành nô lệ, trở thành những công cụ biết nói, bắt dân ta phải tự đốt phá tài nguyên của đất nước mà chúng ưa thích.
Vơ vét sản phẩm, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không thể mô tả bằng lời:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tác giả chọn trúc Nam Sơn và nước Đông Hải để chỉ tội ác của loài quỷ độc ác, chỉ để gây ra sự đau đớn không ngớt cho dân ta. Hậu quả của chúng là cực kỳ tàn khốc: mẹ mất con, vợ mất chồng, con cái nghèo khó, muôn loài bị hủy diệt, dân ta phải chịu nhiều khổ đau.
Để chỉ ra tội ác của chúng, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, sử dụng những câu văn đầy hình ảnh, hình tượng, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Khi thể hiện căm phẫn, khi thể hiện sự đau đớn, xót xa cho dân ta. Hai câu cuối kết án cực kỳ sắc bén:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?”
Tội ác của giặc Minh vượt qua giới hạn của lẽ trời. Hành động của chúng dơ bẩn đến mức không thể tha thứ được. Đứng trên lập trường nhân nghĩa, đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm phẫn với kẻ thù.
Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với một hình ảnh hoàn toàn đối lập 'Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán', quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và căm phẫn: 'Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?', ông tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.
Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
“Bình Ngô đại cáo” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn, chính trị gia Nguyễn Trãi. Ông sáng tác bài cáo này vào mùa xuân năm 1428, nhằm tuyên bố chiến thắng trước quân Minh. Bản thân tác phẩm không chỉ khẳng định sự độc lập, chủ quyền của Đại Việt mà còn là một bản án rất rõ ràng, lên án tội ác không thể tha thứ của bè lũ bán nước và cướp nước. Hãy phân tích đoạn 2 của 'Bình Ngô đại cáo' để hiểu rõ hơn điều đó!
Ở đoạn đầu tiên, tác giả tỏ ra tự hào, hãnh diện khi phát biểu về lịch sử vĩ đại của dân tộc và đất nước. Ông khẳng định chủ quyền văn hóa và lãnh thổ của Đại Việt, cũng như của các triều đại Bắc Nam, mỗi nơi đều có một hào kiệt riêng. Ông cho rằng nhân vật hào kiệt luôn có, bất kể thời đại nào cũng có. Vì vậy, tại sao phải xâm chiếm, cướp bóc lẫn nhau? Nhờ vào lối suy luận đó, tác giả đã chuyển sang phần thứ hai, nêu lên lí do dẫn đến cuộc chiến giữa Đại Việt và nhà Minh:
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Phân tích đoạn 2 của 'Bình Ngô đại cáo' làm rõ, chỉ qua 5 câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã mô tả được toàn cảnh xã hội rối ren thời kỳ đó. Đó là những người lãnh đạo, đứng đầu đất nước đang yếu đuối, thôn tính, tham lam và chia rẽ, khiến lòng dân oán hận. Trong khi đó, bên ngoài, quân Minh lén lút thăm dò từ lâu để tận dụng cơ hội gây rối. Chính sự nhiễu nhương kết hợp với bè lũ bán nước và cướp nước đã thúc ép Đại Việt vào tình thế phải đấu tranh. Nguyễn Trãi, với bản chất là nhà chính trị, mỗi lời luận điều của ông đều rất sắc bén và hợp lý.
Đoạn thơ này thể hiện rõ mục tiêu xâm lược của quân Minh và những kẻ bán nước cầu vinh.
Chính vì lí do đó mà Đại Việt gặp nguy. Bọn bán nước, cướp nước đang dày công hành hạ nhân dân, gây ra nhiều tội lỗi. Sau khi chiếm đóng nước ta, quân Minh đô hộ Đại Việt trong hai mươi năm với các chính sách rất tàn bạo.
“…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Chứng kiến những cảnh đau thương của nhân dân, Nguyễn Trãi, một chính trị gia có trái tim nhân ái, đã rõ ràng lên án tội ác của quân giặc là “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Câu thơ không chỉ thể hiện nỗi đau sâu thẳm của tác giả vì sự thương xót đối với nhân dân mà còn là lời phê phán dữ dội quân giặc. Hành vi tàn bạo của chúng không chỉ là của con người mà còn là của tất cả loài sống trong tự nhiên. Chúng dối trá, lừa dối dân. Chúng không chỉ lấy cắp của cải và sức lao động mà còn làm hại môi trường và tàn phá đời sống sinh vật. Hơn nữa, chúng thậm chí còn tàn sát những người vô tội, thiện lương, những người nông dân làm ruộng, hiền từ, đức độ. Ấy vậy mà chúng cũng không khoan nhượng. Với việc liệt kê hàng loạt, liên tục những hành động tàn bạo của quân giặc, tác giả như đang thể hiện sự tức giận và căm thù. Cảm xúc này cũng là cảm xúc chung của toàn dân Đại Việt lúc bấy giờ. Họ chỉ muốn nổi dậy để đấu tranh chống lại kẻ thù.
Phân tích đoạn 2 của 'Bình Ngô đại cáo', ta càng thấy sự khéo léo trong việc sử dụng biện pháp nghệ thuật văn học của Nguyễn Trãi. Ông đã sử dụng phép nhân hóa và đặc tả để phơi bày tội ác thâm độc của quân cướp nước. Chỉ khi sống trong thời kỳ đó, hoặc lớn lên trong cảnh bạo ngược đó mới thấy rõ quân giặc không khác gì thú vật, coi mạng người như cỏ rác.
Khi phân tích đoạn 2 của 'Bình Ngô đại cáo', độc giả như đang tham gia vào một cuộc hành trình qua lịch sử đầy máu và nước mắt. Đó là những cảm xúc thương tâm của dân tộc mà không có gì có thể bù đắp được. Nhưng độc giả cũng có thể cảm nhận được sự kiên cường, bất khuất của nhân dân Đại Việt. Với lời văn sắc bén, hùng tráng, tuôn trào qua từng câu chữ, hình ảnh, chính trị gia Nguyễn Trãi một lần nữa lên án gắt gao tội ác của quân giặc.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Theo Thạch Lam, văn chương không chỉ đem lại sự thoải mái và sự quên, mà còn là một khí giới cao quý, mạnh mẽ, để vạch trần và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác. Điều này đúng với tác phẩm 'Bình Ngô đại cáo', nơi mà từng từ ngôn từ đều phản ánh sâu sắc bản chất của xã hội và lên án những thế lực tàn bạo.
Văn chính luận của Nguyễn Trãi được xây dựng bằng ngôn từ sắc sảo, logic và rõ ràng. Tác giả không chỉ chỉ ra động cơ thâm độc và bộ mặt giả tạo của quân xâm lược, mà còn phân tích sâu sắc về chiến lược và hậu quả của hành động đó:
“…Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh…”
Với ngòi bút sắc sảo, đanh thép, Nguyễn Trãi vạch trần bộ mặt bất nhân, bất nghĩa của quân địch. Tác giả không ngần ngại thể hiện sự căm phẫn với tội ác, đồng thời nhấn mạnh sự đau đớn và thương tâm cho nhân dân bị đối xử tàn bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…”
Bằng cách liệt kê các hành động tàn bạo của quân giặc, Nguyễn Trãi làm cho độc giả cảm nhận được sự căm phẫn và bất mãn đối với những kẻ xâm lược, đồng thời thấu hiểu hơn về đau khổ của nhân dân bị áp bức.
Tội ác của quân xâm lược không chỉ là tội ác đối với con người, mà còn là tội ác đối với thiên nhiên:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
Với lời văn sắc bén, Nguyễn Trãi đã làm cho độc giả thấu hiểu sâu sắc về tội ác của quân giặc và đau khổ của nhân dân trong thời kỳ chiến tranh.