Phân tích đoạn 2 Tây Tiến Quang Dũng tập hợp 22 ví dụ xuất sắc kèm theo 3 gợi ý viết rất chi tiết. Với 22 mẫu phân tích Tây Tiến khổ 2 được trình bày rất rõ ràng, sẽ giúp bạn hiểu nhanh và tiết kiệm thời gian tìm kiếm.
Phân tích phần 2 Tây Tiến được soạn thảo cẩn thận, kỹ lưỡng và chất lượng. Qua đó, bạn sẽ hiểu rõ hơn về bức tranh sinh động của Tây Bắc. Bạn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp ấn tượng và sự lãng mạn của buổi liên hoan văn nghệ, từng dòng thơ mang đậm chất âm nhạc và hình ảnh đặc trưng. Dưới đây là 22 mẫu phân tích đoạn 2 Tây Tiến, mời bạn đọc theo dõi. Nếu muốn nắm vững hơn kiến thức về môn Văn, bạn có thể tham khảo thêm phần mở bài và kết bài Tây Tiến, cũng như phần phân tích đoạn 1.
Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến
I. Giới thiệu:
- Tác giả Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến được giới thiệu ngắn gọn.
- Khổ thơ 2 của Tây Tiến khắc họa một không gian tình cảm ấm áp ở vùng Tây Bắc với những kỷ niệm đáng nhớ.
- Trích đoạn thơ:
'Trại chiến lửa rực ngọn đua hoa
......
Dòng nước lũ hoa vẫn cuốn trôi'
II. Nội dung chính:
* Tổng quan
- Giới thiệu sơ lược về đội quân Tây Tiến
- Tổng quan về tác phẩm Tây Tiến
* Phân tích chi tiết
- Hai dòng thơ đầu tiên:
- 'Trại quân đang sôi động': Nơi cư trú và làm việc của binh lính, với môi trường khắc nghiệt, khô khan
- Động từ 'bừng lên': Sự sáng sủa, rực rỡ
- 'Đám đuốc hoa rực rỡ': Đêm văn nghệ sáng tạo, đầy màu sắc và sự hân hoan
- 'Kia người em': Sự ngạc nhiên và kích động khi nhìn thấy người em
- 'Bộ áo đẹp hoa sen': Trang phục truyền thống đẹp mắt, tươi sáng như hoa sen
- Hai dòng thơ sau:
- 'Khèn và tiếng reo vang': Âm nhạc và tiếng cười vang lên, tượng trưng cho văn hóa của vùng Tây Bắc
- 'Man điệu vẻ vang': Điệu nhạc và vũ điệu phản ánh nét đẹp tự nhiên của đời sống dân gian
- 'E ấp nụ cười thiên thần': Sự nhẹ nhàng và tươi vui của người con gái dân tộc
- 'Xây dựng tâm hồn thơ mộng': Khát vọng xây dựng một tâm hồn cao thượng, trữ tình
- Bốn dòng thơ tiếp theo
- 'Chiều sương': Hình ảnh đẹp đẽ, lãng mạn, và thơ mộng tạo nên bức tranh khác biệt so với sự hoành tráng của khúc đầu bài.
- 'Ấy': Đại từ này tạo điểm nhấn đặc biệt cho bức tranh của buổi chiều sương.
- 'Hồn lau': Mô tả cảnh lau qua lớp sương, cũng như mang lại sự sống cho cây cỏ.
- 'Nẻo bến bờ': Nẻo - con đường, lối đi, đại diện cho sự mênh mông và rộng lớn.
- Điệp ngữ: 'Có thấy-có nhớ' thể hiện tình cảm lưu luyến, nhớ nhung sâu sắc.
- 'Dáng người trên độc mộc': Dáng vẻ uyển chuyển, thướt tha, như hoa đong đưa theo dòng nước lũ.
- 'Dòng nước lũ - hoa đong đưa': Hình ảnh tưởng chừng đối lập nhưng hòa quyện một cách tinh tế.
→ Phương pháp gợi lên mà không mô tả
* Tương hợp
- Bút pháp tinh tế, lãng mạn của Quang Dũng thể hiện qua những từ ngữ và hình ảnh tạo nên.
- Tình cảm sâu sắc dành cho thiên nhiên và con người Tây Bắc cũng như những kỷ niệm đẹp.
III. Kết bài:
- Cảm xúc, suy tư về Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.
Bản đồ tư duy Tây Tiến khổ 2
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 1
'Cuộc sống giống như mảnh đất mỡ màng cho cây thơ mọc và phát triển.' (Puskin) Bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, bài thơ của Quang Dũng đã miêu tả về thiên nhiên và con người ở vùng núi cao Tây Bắc một cách sống động và chân thực nhất. Ngoài những dốc cao, vực sâu, những dãy núi cao hiểm trở, hùng vĩ, còn có những ngôi làng với những kỷ niệm đẹp. Và có lẽ, một trong những kỷ niệm không thể nào quên của người lính là đêm hội liên hoan ấm áp, tình thân với dân quân:
'Doanh trại sáng sủa như đuốc hoa
Thấy em xiêm áo thế nào kia
Khèn vang man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.'
Vẻ đẹp tài năng và lãng mạn của người lính Tây Tiến đã được thể hiện rõ qua những câu thơ trên. Khu vực hoạt động của họ rất rộng lớn, và do hành quân thường xuyên nên các doanh trại thường mới chỉ được dựng lên. Từ 'bừng' mang đầy nghệ thuật, là sự sáng tỏ, không chỉ là ánh sáng mà còn là âm thanh, sôi động, nhộn nhịp. Trong ánh lửa sáng loá, tiếng khèn rộn ràng, cả con người và cảnh vật đều như say mê, ngả ngớn và rực rỡ. Hai từ 'kìa em' và cụm từ 'tự bao giờ' thể hiện một cái nhìn vừa ngạc nhiên, vừa hạnh phúc và say đắm. Trong bức tranh đêm nay, những cô gái vùng cao độc đáo trong những bộ trang phục sặc sỡ bất ngờ xuất hiện. Họ vừa e ấp, vừa dịu dàng và duyên dáng trong điệu nhảy đậm chất văn hóa, khiến người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên và thán phục. Đêm liên hoan thấm đượm tình thân giữa quân dân cũng đã từng được nhà thơ Hoàng Trung Thông nhắc đến:
'Các anh trở về mái ấm nhà, tiếng hát vui cười rộn ràng trong xóm nhỏ.'
Tinh thần lãng mạn, bay bổng của đoạn thơ được thể hiện qua câu chốt. Đêm liên hoan diễn ra tại doanh trại ven biên giới Việt - Lào, với tiếng khèn vang vọng, âm nhạc phát ra bay bổng về phía Viên Chăn. Đêm liên hoan đó đã 'xây nên bức tranh thơ' cho những người lính trẻ, là sự bay bổng, phi thường theo tiếng khèn, điệu nhạc.
Bốn câu thơ cuối, Quang Dũng đã tái hiện lại cảnh chiều sương Châu Mộc với nỗi nhớ thương đong đầy:
'Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Hình ảnh hồn lau nẻo bến bờ
Nhớ về dáng người trên con đường gỗ mộc
Theo dòng nước lũ hoa đong đưa.'
Bốn câu thơ đong đầy nỗi nhớ sâu đậm của người lính Tây Tiến về cảnh thiên nhiên miền Tây. Những câu thơ gợi lên không chỉ không gian mà còn thời gian. Đó là một buổi chiều sương bao phủ tại Châu Mộc. Không phải sương mù, sương mờ mà sương mạnh mẽ lan tỏa khắp nơi tạo nên bức tranh cảnh vật mơ hồ, mờ nhạt. Sự mờ nhạt ấy không chỉ là do màn sương hiện thực mà còn là màn sương của ký ức, hoài niệm. Tuy nhiên, chính điều đó làm cho cảnh vật trở nên mềm mại hơn, sâu lắng hơn, mơ hồ như một bức tranh thủy mặc.
Cảnh sông nước bao la với bờ cỏ lau hoang dã đậm màu sắc cổ tích gợi lên một không gian vô cùng rộng lớn, mênh mông. Hình ảnh của hoa cỏ lau là nét đặc trưng của thiên nhiên núi rừng. Điều đặc biệt trong đoạn thơ là cách khắc họa cảnh vật kết hợp với tâm hồn thiên nhiên. Bông cỏ lau dường như cũng mang trong mình một linh hồn, tạo điều kiện cho bức tranh thiên nhiên thêm sinh động, chân thực hơn. Tâm hồn của cỏ lau trong thơ Quang Dũng cũng là tâm hồn buồn bã, đầy nhớ nhung, mơ mộng và cảm động. Trong thơ, cỏ lau thường là biểu tượng của nỗi buồn thương, cô đơn, mênh mông.
'Người đi lướt nhẹ qua hồn lau gió
Thổi bay trắng chân trời như hơi gió.'
Bút pháp tinh tế tạo ra không gian sông nước vô cùng rộng lớn, cảnh sắc hiu quạnh, thưa thớt, cỏ cây như có linh hồn. Câu 'có thấy', 'có nhớ' đầy cảm xúc như đào sâu vào lòng người, gợi lên những kỷ niệm xưa cũ. Câu thơ 'có nhớ dáng người trên con đường gỗ mộc' tạo ra một bức tranh hoang sơ không còn lạnh lẽo khi có sự hiện diện của con người. Hình ảnh người trên con đường gỗ mộc vừa mềm mại, uyển chuyển vừa mạnh mẽ, dẫn đưa con thuyền theo dòng nước lũ. Và có thể hiểu rằng, người đó có thể là những người chèo thuyền vượt sông với các chiến sĩ.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 2
Nếu ở khổ thơ một, nhà thơ đã vẽ lên những hình ảnh mạnh mẽ của vùng núi rừng Tây Bắc thì ở đoạn thơ này, Quang Dũng đã đưa chúng ta vào một khung cảnh khác: cảnh đẹp, dịu dàng, tươi mới của Tây Bắc. Cảm hứng lãng mạn được chia thành hai phần rõ rệt, đề cập đến hình ảnh người lính trong đêm liên hoan doanh trại và vẻ đẹp của Tây Bắc một chiều sương. Những đường nét mạnh mẽ, gân guốc đã được thay thế bằng những đường cong mềm mại, tinh tế, và sự tài hoa.
Trải qua những giây phút hành quân khó khăn, các chiến sĩ còn có những khoảnh khắc giao lưu văn nghệ với những người dân Tây Bắc. Được gọi là “doanh trại” nhưng thực tế, có lẽ chỉ là một đêm văn nghệ giản dị, ấm áp trên con đường khó khăn. Không khí liên hoan phát triển đầy đủ cả âm thanh, ánh sáng, và hình ảnh con người:
“Doanh trại rực sáng đám lửa lung linh
Kìa những cô gái trong trang phục dân tộc
Khèn lên điệu nhạc dịu dàng
Nhạc vang đến Viên Chăn xây hồn thơ.”
Lời ngược “doanh trại rực sáng” kết hợp với động từ “rực sáng” tạo nên ấn tượng về một ánh sáng bất ngờ, như hàng ngàn ngọn lửa đột ngột bùng cháy, chiếu sáng cả vùng núi rừng trong đêm tối. Bằng cách lãng mạn và tình tứ, Quang Dũng đã ví những ngọn lửa đó như “lửa lung linh”- ngọn lửa cháy trong đêm tâm hồn - ẩn chứa một sự gặp gỡ duyên phận giữa các chiến sĩ Tây Tiến trẻ trung hào hoa và nhân dân Tây Bắc. Trên nền ánh sáng lung linh đó, nổi bật là hình ảnh của những cô gái dân tộc: “Kìa những cô gái trong trang phục dân tộc/ Khèn lên điệu nhạc dịu dàng”. Chỉ từ “kìa” đã mở ra trước mắt người đọc hình ảnh uyển chuyển, dịu dàng của những thiếu nữ Tây Bắc, và cũng không giấu diếm sự ngạc nhiên, ánh nhìn tình tứ của các chiến sĩ trẻ trước vẻ đẹp của vùng đất mới. Kiểu dáng “e ấp” được phản chiếu qua ánh mắt tinh tế của những con người lần đầu đặt chân đến Tây Bắc, gợi lên một vẻ đẹp kín đáo, một sự khám phá trước những nét đẹp văn hóa của Tây Bắc. Ngoài ra, những “điệu nhạc dịu dàng” - những điệu múa, nhạc âm mới lạ như chất xúc tác gợi lên sự tình tứ, say mê thưởng thức. Sự hào hoa, lãng mạn, đa tình này dường như là “đặc sản” của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp, khi họ thường là thanh niên học sinh trí thức, xếp bút nghiên cầm súng lên đường theo tiếng gọi của quê hương. Câu thơ cuối cùng chủ yếu là thanh thoát, tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng trong tâm hồn của người lính: “Nhạc vang đến Viên Chăn xây hồn thơ”. Âm nhạc hòa mình với tâm hồn mơ mộng, kêu gọi về những ước mơ, đưa tâm hồn phiêu dạt vượt qua giới hạn không gian, biên giới, để xây dựng tâm hồn thơ - mơ về Viên Chăn - mơ về ngày chiến thắng. Hình ảnh thơ mộng nhưng không xa lạ với cuộc sống, thậm chí nâng cao tầm hồn con người, khích lệ tinh thần những người lính và mở ra khát vọng hòa bình cho đất nước.
Bốn câu đầu giúp chúng ta cảm nhận được sự sôi động, nhộn nhịp trong đêm liên hoan ấm áp tình quân dân. Bốn câu sau tiếp tục dệt nên mạch cảm xúc của toàn bài thơ, ấy là nỗi nhớ về những khoảng không gian sông nước đầy chất thơ của Tây Bắc:
“Ai đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau bên bờ nẻo
Có nhớ dáng người trên thuyền độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tây Bắc dịu dàng - thơ mộng - trữ tình với sông nước mênh mông, sương phủ lãng đãng, hai bên bờ là bạt ngàn lau, và đâu đó thấp thoáng bóng người, bóng hoa. Không gian và thời gian mở ra qua cụm từ “Chiều sương”: trong khoảnh khắc cuối ngày, khắp đất trời chìm trong màn sương bồng bềnh, lãng đãng rất đặc trưng cho núi rừng Tây Bắc. Ý niệm thời gian cũng mờ nhạt qua từ “ấy”, gợi nhiều ký ức, có lẽ trên con đường hành quân tác giả đã in sâu vào tâm trí mình một khung cảnh vừa thực, vừa mơ và bây giờ, nhớ lại, ký niệm mơ hồ lại có sức ám ảnh lòng người. Đi trong chiều sương, những tâm hồn trẻ ấy đã thấy “hồn lau bên bờ nẻo”. Đó là bạt ngàn lau xám phất phơ hai bên bờ sông hoang vắng, như làm dậy lên một niềm niềm. Màu trắng tinh khiết kia gợi lên nét đẹp nguyên sơ như chưa từng bước chân người. Nhớ về Tây Bắc là nhớ về những cánh đồng lau bạt ngàn trắng như thế, cái hồn của lau kéo theo cái hồn người là như vậy!
Nhớ về Tây Bắc còn là nhớ cái “dáng người trên thuyền độc mộc” - gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của những chàng trai, những cô gái, những người dân Tây Bắc trên con thuyền độc mộc lao trên sóng nước. Cảm hứng khen ngợi những con người ấy ta cũng gặp trong hình ảnh ông lái đò Mai Châu trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của Nguyễn Tuân. Đặc biệt là hình ảnh những bông hoa rừng “đong đưa” trôi theo dòng nước lũ. Trong cái khắc nghiệt dữ dội vẫn luôn có vẻ đẹp của sự mềm mại, mong manh. Điểm nhìn lãng mạn giúp Quang Dũng có được những phát hiện rất nên thơ như thế.
Trong đoạn thơ này, ta nghe tiếng hát của những câu hỏi tu từ: “thấy... nhớ…”. Đó là sự gợi thức trong tâm hồn mình, là sự nhắc nhở mỗi chàng trai ra đi từ 36 phố phường hãy nhớ về Tây Bắc, về Tây Tiến như những hồi ức hào hùng không quay trở lại.
Tóm lại, tám câu thơ như một bức tranh tinh tế với vài nét vẽ mềm mại, thu lại được cái hồn của cảnh và người Tây Bắc. Cũng qua những hình ảnh thơ đặc sắc đó, chúng ta còn cảm nhận được vẻ đẹp của những người lính Tây Tiến - những chàng trai lãng mạn, đa tình, hào hoa.
Phân tích phần 2 Tây Tiến hay nhất - Mẫu 3
Xuất hiện vào năm 1948, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng đã tạo ra một trong những bộ “ngũ tư bất tử” trong thơ ca thời kháng chiến chống Pháp. Nỗi nhớ về cảnh và người ở núi rừng Tây Bắc, kỷ niệm về những đồng đội từng chung một dòng máu đã trở thành nguồn cảm hứng cho Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến gây xúc động lòng người. Bài thơ này là tiếng lòng thổn thức, huyền bí mà Quang Dũng gửi lại với đất miền Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Theo dòng nhớ thương ấy, vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây vô cùng thơ mộng, con người miền Tây mạnh mẽ, kiên cường đã được tả rất sâu đậm qua những câu thơ giàu cảm xúc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, ông có khả năng viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, trong đó ông đặc biệt thành công trong việc sáng tác thơ văn. Với tâm hồn thơ mộng, sáng tạo, Quang Dũng đã mang đến cho thơ văn kháng chiến một phong cách mới mẻ, độc đáo, đặc biệt là trong việc tạo hình người lính: vừa dũng cảm, kiên định, vừa lãng mạn, phong nhã. Có thể nhìn thấy rõ những nét mới này qua bài thơ được xem là kiệt tác thơ văn của Quang Dũng – Tây Tiến. Bài thơ này được sáng tác vào năm 1948 khi Quang Dũng chia tay với đồng đội, binh đoàn Tây Tiến để chuyển đến đơn vị công tác mới. Qua bài thơ, Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình cảm gắn bó với đồng đội và vùng đất Tây Bắc mà còn vẽ nên chân dung sống động của những người lính Tây Tiến vừa dũng cảm, trung thành vừa tài hoa lãng mạn.
Tây Tiến được lập nên vào mùa xuân năm 1947, gồm phần lớn là những chàng trai trẻ của Hà Nội, trang nhã, lịch lãm: “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng – Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm” nên họ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng, đầy ước mơ. Họ ra đi chiến đấu mang trong lòng lí tưởng cao cả: sẵn sàng hy sinh tất cả cho đất nước. Khu vực hoạt động của đoàn binh Tây Tiến kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình đến Thanh Hóa, và cả Sầm Nưa của Lào. Đó là vùng đất đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc, nơi rừng sâu, nước độc, và thạch sơn hòa quyện với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Họ có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, hỗ trợ bộ đội Lào đánh tiêu diệt địch. Cuộc sống chiến đấu cực kỳ khó khăn, thiếu thốn, và đầy gian khổ, với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Vì vậy, những người lính Tây Tiến hi sinh ít vì đạn, và nhiều vì bệnh tật. Sau chỉ một năm chiến đấu, đoàn Tây Tiến gần như tan rã, đơn vị bị giải thể, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển đến một đơn vị khác, và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Khi nhớ về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội, Quang Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”, thể hiện tình cảm trào dâng và sâu lắng của mình đối với đất và người. Bài thơ sau này được đơn giản hóa chỉ với tên là “Tây Tiến”, nhưng nỗi nhớ vẫn hiện hữu, như là một nguồn cảm hứng cho toàn bài.
Toàn bộ đoạn thơ là bức tranh tuyệt vời về sự hòa quện giữa thiên nhiên và con người. Miền Tây được mô tả như một tác phẩm nghệ thuật, ấm áp, thơ mộng và quyến rũ.
Bốn câu đầu gợi nhớ về cảnh đêm hội liên hoan sôi động, lung linh, cùng với làng quê náo nhiệt:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khung cảnh của đêm hội trại được nhà thơ mô tả như một “hội đuốc hoa” vô cùng sôi động, rực rỡ và náo nhiệt. Không còn cảm giác u ám của đèo cao, vực sâu, không còn tiếng vang của rừng núi hùng vĩ. Mọi thứ trở nên sáng sủa, sống động, và phấn khích. Từ từ “bừng lên” đã tạo ra một bức tranh sinh động về cuộc hội trại văn nghệ, làm sáng bừng và rộn ràng cả đoạn thơ. Chính vì thế, câu thơ có thể coi như là một biểu tượng, một điểm nhấn đặc biệt của bài thơ.
Đêm hội văn nghệ diễn ra giữa rừng núi miền Tây cần sự sáng tỏ từ lửa đuốc. Khán giả và những lính trẻ cầm đuốc như những thanh niên trẻ trung, sôi nổi. Ánh sáng từ lửa đuốc soi bừng mặt người, làm ấm lòng quân dân. Trong tâm trí tài hoa của Quang Dũng, đó là một đêm hội đuốc hoa, ngọt ngào, lãng mạn như đêm tân hôn. Sự cảm xúc táo bạo và mãnh liệt không phai nhòa. Ánh sáng tỏa rạng cũng là lúc những trang phục truyền thống lung linh:
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Quang Dũng bị mê hoặc bởi vẻ đẹp của cô gái đến mức kính phục. Từ vóc dáng đến trang phục, anh ta đều say mê. Trang phục truyền thống của các cô gái Tây Bắc tôn lên vẻ đẹp của họ. Anh ta không khỏi ngạc nhiên trước sự tinh tế đó. Cô gái trở thành trung tâm của bức tranh, mang vẻ đẹp quyến rũ từ xa xôi. Tiếng khèn “man điệu” cũng bừng lên: Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những điệu nhạc dân tộc Tây Bắc mang sức hút kỳ bí như chốn núi rừng hùng vĩ.
Trong khoảnh khắc ấy, tâm hồn lính trẻ cũng bừng sáng, tưng bừng. Từ “kìa em” như là lời chào đón đầy ngạc nhiên. Lời chào đón mang tính khám phá. Em lạ mà quen, quen mà lạ. “Em” trở nên trung tâm thu hút mọi ánh nhìn. “Em” có thể là cô gái dân tộc, hoặc là văn công trong đoàn văn nghệ. Sau những ngày chiến đấu, đây là thời gian nghỉ ngơi tinh thần sau mệt mỏi. Và “em” cũng có thể là những anh chàng lính trẻ. Trong nhật kí trung đoàn có ghi lại: Trong đoàn quân, có những chàng lính trẻ, dáng người mảnh mai, nhỏ nhắn, giả trang làm con gái, khi lên sân khấu diễn cũng tình tứ, duyên dáng như ai bởi sự e ấp, thẹn thùng.
Câu thơ cuối phản ánh lý tưởng của người lính Cụ Hồ. Trước sắc màu lung linh của trang phục, điệu nhạc du dương và điệu múa duyên dáng, các chàng trai Hà Nội bị cuốn vào đêm văn nghệ. Đây cũng là lúc họ sống với khát vọng cháy bỏng của mình:
Nhạc về Viên Chăn khuấy động tâm hồn thơ mộng
Âm nhạc đưa tâm hồn lính bay xa, trở về thủ đô Viêng Chăn của Lào. Thủ đô là trung tâm của quốc gia, nơi tín hiệu độc lập được lan tỏa. Đêm văn nghệ tại Viêng Chăn chắc chắn là niềm vui của chiến thắng. Mặc dù mơ mộng, nhưng lính Tây Tiến không quên nhiệm vụ của mình: giải phóng quê hương khỏi kẻ thù.
Sau những vần thơ rực rỡ, Quang Dũng mô tả cảnh Sông nước miền Tây mênh mông, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương mù
Có thấy hồn lau dọc bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa lung linh
Có thể đó là những chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân qua Châu Mộc, khi Quang Dũng nhớ lại những kỷ niệm cùng đồng đội. Câu thơ 'chiều sương mù' tái hiện bầu không khí bí ẩn của một buổi hành quân trong sương mù, khiến không gian trở nên như cổ tích.
Không gian rừng Tây Bắc tràn ngập màu trắng bạc của khói sương mơ màng, tạo nên bức tranh hoang dã huyền bí. Dòng sông buổi chiều hiện lên như một bức tranh cổ tích, làn nước êm đềm nhưng cũng dữ dội khi mùa lũ tràn về.
Quang Dũng nhớ đến nét đẹp mộng mơ của rừng Tây Bắc qua hình ảnh hồn lau lay động bến bờ.
Dòng sông miền Tây hiện lên không hiền hòa êm dịu như thường lệ, nhưng cũng chứa đựng sự mạnh mẽ và bí ẩn của thiên nhiên.
Hình ảnh người chèo thuyền độc mộc trên dòng nước lũ là điểm nhấn của bức tranh thiên nhiên hoang sơ và cuốn hút.
Thuyền độc mộc trôi trên dòng nước, cùng với hình ảnh cô thiếu nữ uyển chuyển chèo thuyền, tạo nên bức tranh duyên dáng của cuộc sống ven sông trong lòng rừng Tây Bắc.
Sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và con người trong cảnh vật bình dị của miền Tây Bắc được người đọc cảm nhận rõ. Hình ảnh những bông hoa đang nở rộ trên dòng nước lũ và người lái thuyền uyển chuyển tạo nên một không gian thơ mộng và tình cảm dịu dàng.
Đoạn thơ thành công với việc kết hợp tinh tế giữa hội họa, âm nhạc và thơ ca. Những chi tiết như “bến bờ”, “thuyền độc mộc”, “dòng nước lũ” cùng với “hồn lau”, “dáng người” và “hoa đong đưa” tạo ra một không gian siêu thực đầy lãng mạn và tài hoa.
Tám câu thơ đặc sắc như một bức tranh tinh tế, mềm mại và sâu lắng, đưa người đọc vào một thế giới đẹp mơ mộng, đầy ánh sáng và âm nhạc. Với tinh thần nhạy cảm và tài nghệ xuất sắc, Quang Dũng đã tạo ra những vần thơ lôi cuốn, gợi mơ mộng và sâu sắc.
Phân tích đoạn 2 bài Tây Tiến - Mẫu 4
Tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng, sáng tác vào năm 1948, thể hiện tinh thần phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa của nhà thơ. Với khả năng sáng tạo đa dạng, Quang Dũng đã biến bài thơ thành một tác phẩm đa phương diện, cuốn hút độc đáo người đọc.
Doanh trại sáng rực dưới ánh lửa của những đốm hoa
…………
Dòng nước lũ hoa đong đưa
Tây Tiến, một đơn vị quân đội thành lập từ năm 1947, được giao nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào. Sau gần hai năm hoạt động, vào cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển đến đơn vị khác nhưng nỗi nhớ vẫn sâu sắc. Ông nhớ về những khoảnh khắc tại miền Tây, nơi lưu lại những kỷ niệm ngọt ngào và thiêng liêng. Tại 'doanh trại' của binh đoàn, một buổi hội đuốc hoa sôi động đang diễn ra.
Doanh trại sáng rực dưới ánh lửa của những đốm hoa
Với từ 'bừng lên', tác giả muốn nhấn mạnh sự rực rỡ của ánh sáng đột ngột xuất hiện trong không gian đêm hội. Đó có thể là ánh sáng từ những ngọn đuốc sáng lên, tạo nên không khí sôi động và vui vẻ. Đồng thời, đó cũng là ánh sáng của niềm vui và tình thương trong lòng những người lính.
Kìa em với chiếc áo dài tự bao giờ
Như một lời reo vui rộn rã, ngập tràn lòng trìu mến khi những cô gái vùng cao hiện lên trong trang phục truyền thống của dân tộc. Vẻ đẹp của họ càng tôn lên khi tiếng khèn vang lên, những động tác múa bắt đầu. Tiếng khèn lạ kỳ, điệu nhạc uyển chuyển lôi cuốn lòng người đến khó quên. Họ hòa mình vào không khí của buổi hội đêm và thu hút mọi ánh nhìn bởi vẻ đẹp dịu dàng, thần thái của họ. Trong bức tranh Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ, với âm nhạc lãng mạn, các điệu múa uyển chuyển, và ánh sáng kỳ diệu, những chàng trai Hà Nội tràn đầy tình yêu và trách nhiệm hướng về Viên Chăn.
Mọi cuộc chia tay đều đến, và cuộc chia tay trên dòng nước miền Tây chiều ấy tràn ngập kỷ niệm đầy xúc động. Ta cảm nhận được không gian rộng lớn, bị phủ bởi màn khói sương đặc trưng của miền Tây Bắc, tạo nên một cảm giác buồn thương.
Hồn lau che phủ bến bờ
Dáng người hiện lên trên dòng suối
Sử dụng phép nhân hóa với cấu trúc câu hỏi nhẹ nhàng “có thấy”, “có nhớ”, Quang Dũng như đề cập đến lòng nhớ về thiên nhiên (hồn lau) và con người (dáng người). Với hình ảnh của cây lau, một sự tượng trưng cho sự tinh khiết, nhẹ nhàng, mỗi cơn gió nhẹ cũng đủ làm bờ lau xao động. Lau che kín mọi lối đi: bến bờ. Và hình ảnh con người cũng không thể thiếu trong bức tranh đầy thơ mộng này;
Dáng người hiện lên trên dòng suối
Có thể nhận ra hình ảnh những cô gái Thái, Mèo uyển chuyển, mềm mại cầm lái thuyền chở các chiến sĩ vượt sông. Hoặc những chiến sĩ mạnh mẽ, kiêu hãnh vượt qua thác, vượt qua mọi gian khổ của địa hình. Quang Dũng sử dụng nghệ thuật đảo ngữ và phép đối lập trong câu thơ cuối của khổ thứ hai như một lời chia tay. Ông vẽ lên một bức tranh về thiên nhiên hoang dã của vùng thác, nhưng trên đó lại có những bông hoa nhẹ nhàng 'đong đưa' với tình cảm sâu lắng như lời tạm biệt của cô gái miền Tây với người lính chiến trường.
Bằng ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ chứa đựng vẻ đẹp thiêng liêng của núi rừng, đậm nét cổ tích như một bức tranh mơ hồ trên sông nước miền Tây. Bức tranh đó phản ánh sự nhạy cảm, tình tứ lãng mạn, tài hoa, và tình yêu sâu đậm với miền đất này.
Với ngôn từ thơ mộc, giản dị, và tinh tế, Quang Dũng đã để lại dấu ấn đẹp trong thơ ca kháng chiến, nơi thành công là sự hòa hợp huyền diệu giữa thiên nhiên và con người miền Tây trong khổ thứ hai của bài thơ. Đó là vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng đậm chất nhạc, họa, và mơ mộng của mỗi nét vẽ. Nét bút của Quang Dũng đã tạo ra một thế giới của vẻ đẹp, tình thương ấm áp giữa quân và dân miền Tây Bắc.
Phân tích khổ thứ hai của bài thơ Tây Tiến, được xem là hay nhất - Mẫu 5
Bài thơ này được sáng tác vào năm 1948 tại Phù Lưu Chanh. Tác giả đã cảm hứng sau khi rời khỏi đơn vị quân đội cũ. Với lòng nhớ đồng đội, nhớ những kỷ niệm từ quê hương đến chiến trường, nhớ những cuộc hành quân bên nhau, Quang Dũng đã truyền tải qua 'Tây Tiến'. Đó không chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ, mà còn là cảm xúc chung của một thế hệ trẻ anh hùng:
Phần thứ hai được trình bày như sau:
“Ở doanh trại, ánh sáng của ngọn đuốc bùng lên như một cuộc hội đuốc hoa,
Xem kìa, cô gái trong bộ trang phục dân tộc xuất hiện tự bao giờ.
Âm nhạc của tiếng khèn man mác, cô gái e ấp,
Âm nhạc về Viên Chăn khơi dậy cảm hứng thơ mộng.”
Khi đi về Châu Mộc vào chiều sương ấy,
Liệu bạn có thấy hồn của cây lau ven bến?
Liệu bạn có nhớ hình bóng người trên chiếc thuyền gỗ,
Khi dòng nước lũ hoa đang đong đưa?
Tây Tiến thực ra là tên của đội quân mà Quang Dũng tham gia, được thành lập vào năm 1947. Đội quân này được giao nhiệm vụ chiến đấu ở vùng Tây Bắc, đa số là thanh niên trí thức từ Hà Nội. Tất cả các tác phẩm được viết bằng phong cách lãng mạn, kết hợp với hình ảnh, ngôn ngữ, và giọng điệu sáng tạo, sinh động đã phản ánh sự nhớ nhung sâu sắc của Quang Dũng về đồng đội, về vẻ đẹp và vĩ đại của núi rừng. Dường như, mọi cảm xúc của hồn thơ Quang Dũng đã được ghi lại trong tám câu thơ mô tả bữa tiệc đêm với các cô gái bản xứ và vẻ mơ mộng, tự nhiên trên dòng sông miền Tây. Thật sự, tác giả đã thể hiện rõ về âm nhạc và hội họa qua những kỷ niệm tuyệt vời và những khoảnh khắc chia ly.
Đoạn thứ hai của Tây Tiến khiến người đọc như đang tham gia vào một bữa tiệc đêm lãng mạn, đầy tình cảm quân dân trên dòng sông miền Tây.
“Ánh sáng của ngọn đuốc bùng lên như một buổi hội đuốc hoa,
Xin hãy nhìn kìa, cô gái trong chiếc áo dài tự lâu đời.
Âm nhạc của tiếng khèn man mác, cô gái e ấp,
Âm nhạc về Viên Chăn khơi dậy cảm hứng thơ mộng.”
Bên cạnh những gian khổ ở nơi rừng thiêng và nước độc, trong ký ức của nhà thơ Quang Dũng còn lưu giữ những khoảnh khắc tươi vui của các cuộc hội hè với nhân dân. Nhà thơ sử dụng từ “bừng lên” kết hợp với hình ảnh “đuốc hoa” để tạo nên bầu không khí tưng bừng, sôi động của đêm lửa trại. Cả doanh trại lúc đó bỗng trở nên sáng rực, lung linh như một buổi pháo hoa trong thời kỳ hòa bình. Cũng là lúc những bài ca và tiếng hò reo của dân làng cùng với các chiến sĩ trở nên hòa quyện. Câu hỏi cảm thán “kìa em xiêm áo tự bao giờ” phản ánh sự ngạc nhiên, hạnh phúc của những chiến sĩ Tây Tiến.
Đã rất lâu rồi, từ khi rời xa Hà Nội để tham gia chiến đấu, đội lính Tây Tiến mới được thấy những cô gái tươi mới. Và hôm nay, những cô gái này lại diện những bộ trang phục truyền thống lộng lẫy, mang hình ảnh của núi rừng, khiến các anh chàng càng thêm phấn khích. Dường như, qua đây tác giả muốn nhấn mạnh rằng, những cô gái Tây Bắc chính là trung tâm, là linh hồn của đêm hội. Sự e ấp, mềm mại, và duyên dáng hiện lên rõ ràng qua khuôn mặt, nụ cười và điệu múa của họ.
Nhưng tất cả sự dịu dàng đó lại thu hút sự chú ý của những chàng trai đến từ vùng đồng bằng. Tác giả còn mô tả tiếng khèn hỗn hợp, rạo rực, làm cho cảnh vật và con người như say mê. Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau như muốn “xây hồn thơ” trong không gian tinh khôi và lãng mạn. Không khí của đêm hội trở nên say đắm hơn với tiếng khèn hỗn hợp, rạo rực, làm cho cảnh vật và con người như say mê, trở nên phong phú, sinh động như muốn “xây hồn thơ” lãng mạn. Có thể nói, 4 câu thơ này phần nào thể hiện sự tinh tế và nghệ thuật. Đó cũng là tâm hồn hào hoa, tinh tế của nhà thơ Quang Dũng.
Nếu 4 câu thơ trước, tác giả đã tạo ra một bức tranh về đêm náo nhiệt trong rừng núi Tây Bắc với ánh sáng lửa trại bùng cháy, thì 4 câu thơ sau đưa người đọc đến bức tranh về dòng sông miền sơn cước. Bức tranh này gợi lên một cảm giác mơ mộng, mênh mông:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Khi phân tích đoạn 2 Tây Tiến này, các bạn sẽ dễ dàng nhận ra rằng ngòi bút của nhà thơ không chỉ mô tả chi tiết mà còn gợi mở. Tác giả sử dụng một chuỗi hình ảnh mơ hồ như “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “nẻo bến bờ”, “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi cảm thán không cần lời đáp như “có thấy”, “có nhớ”… Điều đó đã tạo ra trước mắt độc giả một khung cảnh miền Tây vô cùng thơ mộng và mơ màng. Những dòng sương của thiên nhiên lan tỏa khắp nơi, hai bờ bến hiện lên hoang sơ, im lặng. Và rồi, khi các chiến sĩ đang ngắm nhìn vẻ đẹp ấy, trên sông đột nhiên hiện lên hình ảnh dịu dàng, thanh nhã của cô gái Thái. Cô đang chèo thuyền trên dòng nước. Cảnh tượng đó giống như những bông hoa trong rừng đang thả hồn trên dòng nước. Con người và thiên nhiên hoà quyện, tạo nên vẻ đẹp thiêng liêng, khiến núi rừng Tây Bắc trở nên đậm chất thần thoại và cổ tích.
Qua những nét vẽ mơ hồ của nhà thơ Quang Dũng, người đọc cảm thấy như đang thưởng thức một bức tranh tự nhiên đẹp tuyệt vời. Xung quanh bức tranh là cảnh núi rừng u buồn, giữa đó là sông nước xen kẽ với cảnh liên hoan vui vẻ của quân dân. Nếu không có một tâm hồn lãng mạn, một trái tim nhạy cảm biết yêu thương, một tinh thần tài hoa và tinh tế, thì tác phẩm đặc sắc như vậy không thể ra đời. Ngôn từ của ông là dấu ấn sâu trong lòng người đọc, bởi đó chính là cảm xúc, là sự rộn ràng thực sự của tác giả. Đó là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim trước vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc cũng như những kỷ niệm về đồng đội. Trong cuộc sống chiến đấu, mỗi khoảnh khắc bình yên như thế rất quý giá. Có lẽ vì vậy mà nhà thơ cảm động đến như vậy, và tạo ra bức tranh bằng lời như thế!
Như vậy, tám câu thơ ở đoạn hai hoàn toàn không tập trung vào việc miêu tả sự hy sinh và nguy hiểm. Thay vào đó, chúng tạo nên một bức tranh về vẻ đẹp kiều diễm của thiên nhiên và con người miền Tây. Sự hòa quyện giữa âm nhạc, hội họa và tinh thần mơ mộng tạo ra một tác phẩm tuyệt vời. Mỗi nét vẽ của nhà thơ đều uyển chuyển và độc đáo, phản ánh tâm hồn lãng mạn và tài năng của ông.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 6
Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng được xem là một trong những thành công nhất trong văn học về chủ đề người lính. Toàn bài thể hiện sự tài hoa, lãng mạn và rộng lớn của nhà thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn đặc biệt, ông đã thành công trong việc mô tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, hùng vĩ trên nền thiên nhiên núi rừng miền Tây. Bài thơ này như một mảnh ký ức về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ có những thời kỳ khó khăn với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà trong ký ức của nhà thơ còn có ánh sáng của những đêm hội vui vẻ và cảnh đẹp của buổi chiều êm đềm, mơ màng trong núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều này đã được Quang Dũng diễn đạt thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.
Bốn câu thơ mở đầu như mở ra một thế giới mới tại miền Tây:
Doanh trại sáng rực trong ánh đuốc hoa
Kìa em với chiếc xiêm áo tỏa sáng
Khèn vang điệu nhẹ, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn thắm lên hồn thơ
Hình ảnh của “đuốc hoa” thường được hiểu là ánh sáng của những cây nến trong buổi tối, nhưng ở câu thơ này, “đuốc hoa” mang ý nghĩa của ánh sáng trong đêm hội. Dù được hiểu theo nghĩa nào, nó vẫn tạo nên không khí ấm áp, đem lại niềm vui, hạnh phúc của những chiến sĩ. Từ “sáng rực” không chỉ ánh sáng của đuốc hoa, ánh sáng của lửa trại, mà còn là sự hân hoan, vui mừng của mọi người. Từ “sáng rực” này đã từng xuất hiện trong thơ của Tố Hữu, khi người trẻ giác ngộ lý tưởng Đảng:
Bước nắng rực từ đó trong tôi
Điểm chung của sự “sáng rực” của Quang Dũng và Tố Hữu là trước đó là sự u tối, và sau đó là ánh sáng chiếu sáng. Đêm hội mà Quang Dũng mô tả trong bốn câu thơ này có thể được xem như một đám cưới tổ chức cộng đồng. Từ “kìa em” ở câu thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, kinh ngạc của những chiến sĩ trước vẻ đẹp của các cô gái vùng cao trong bộ trang phục “xiêm áo” lộng lẫy, kiêu sa cùng dáng vẻ “e ấp” đậm chất thiếu nữ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp lấp lánh của cô gái bằng cả niềm say mê, sự kính phục từ vẻ đẹp đến trang phục. Trang phục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa của các cô gái Tây Bắc thêm phần tôn vinh vẻ đẹp của họ. Vẻ đẹp ấy khiến nhà thơ phải trầm trồ kinh ngạc. Hình ảnh của “em” trở thành trung tâm của bức tranh đêm hội với vẻ đẹp đặc sắc của miền đất xa lạ. Có thể nói, bốn câu thơ mở đầu trong khổ hai đã làm tan đi mệt mỏi, đẩy lùi gian khó của những người chiến sĩ. Thay vào đó là niềm vui, niềm tin, khiến họ mạnh mẽ hơn trên con đường tiến tới Viên Chăn xây dựng tâm hồn thơ mộng. Từ đó, độc giả có thể cảm nhận rằng dù trong những giây phút vui vẻ, những chiến sĩ vẫn nhớ đến lí tưởng cách mạng.
Nếu trong bốn câu thơ trước là cảnh đêm đầy ánh đuốc hoa, thì trong bốn câu thơ sau là bức tranh thiên nhiên Tây Bắc trong buổi chiều sương:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Hình ảnh của thiên nhiên Tây Bắc được mềm mại hóa. Sức mạnh dữ dội của thác dữ đã lùi xa, thay vào đó là hình ảnh dịu dàng, lãng mạn. “Chiều sương” đã tạo ra bức tranh đặc trưng của vùng đất này. “Chiều sương ấy” như một hồi ức, mờ ảo nhưng đầy màu sắc, làm lòng người xao xuyến.
Đoạn thơ này như một bức tranh hội họa. Khí trời Tây Bắc, phối hợp với sương khói tạo ra một không gian cổ tích. Quang Dũng đã biến cái thực của cảnh vật và sương khói thành một tác phẩm nghệ thuật sống động. Cây lau trong câu thơ thứ ba không chỉ là một cây lau thông thường nữa, mà là có linh hồn riêng – “hồn lau”. “Hồn lau” gợi lên sự hoang dã, tĩnh lặng và sâu lắng của thiên nhiên.
Giữa không gian thiên nhiên đẹp như tranh vẽ ở vùng núi rừng Tây Bắc, hình ảnh con người hiện ra với vẻ đẹp mạnh mẽ, kiên cường:
Khắc sâu nỗi nhớ dáng người trên bờ độc mộc
Từ “có thấy – có nhớ” như một điệp ngữ luyến láy, vẫn vang vọng trong lòng như nỗi nhớ cháy bỏng không nguôi. Dáng người đó có thể là hình ảnh dịu dàng, mềm mại của những cô gái bản địa dẫn dắt chiến sĩ vượt qua sông, hoặc là bóng hình của những lính Tây Tiến đang cố gắng vượt qua dòng sông, thác dữ, tiến về phía trước. Mỗi hình ảnh đều ghi lại trong lòng nhà thơ những dấu ấn không phai.
Láy “đong đưa” ở câu thơ cuối càng thêm phần gợi cảm:
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Cánh hoa rừng như đang ru hòa cùng con người, như là bàn tay vẫy gọi lính đang ra đi, tiễn họ vượt sông chiến trận. Đoạn thơ này để lại ấn tượng sâu sắc về thơ ca kháng chiến, với sự kết hợp hài hòa giữa sử thi và lãng mạn, cùng những yếu tố nghệ thuật tinh tế.
Có thể nói, bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị nhưng đậm đà lãng mạn và hào hoa, Quang Dũng đã tái hiện lại khung cảnh và con người trong đêm hội tại doanh trại cũng như khung cảnh chiều sương trong rừng núi Tây Bắc. Với từng nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, nhà thơ đã tạo ra một thế giới của vẻ đẹp. Đây cũng là đoạn thơ thể hiện rõ nhất sự tài hoa và lãng mạn của Quang Dũng trong toàn bộ bài thơ.
Phân tích Tây Tiến khổ 2 - Mẫu 7
'Thơ làm cho mọi điều tốt đẹp trở nên bất tử'. (Shefley) Và Quang Dũng đã hô biến lại những điều đẹp nhất, những kí ức khó quên nhất trong cuộc đời của lính. Đó không chỉ là những khoảnh khắc di chuyển nơi núi rừng cao nguyên mà còn là những phút giây yên bình. Đêm hội tại một làng trên vùng núi cao Tây Bắc là một phần không thể thiếu trong hành trang tinh thần của lính.
'Doanh trại rực sáng với ánh lửa đuốc hoa'
Doanh trại không chỉ là không gian của hiện thực mà còn là không gian của tâm trí, của ký ức và nỗi nhớ. Nơi đó trở nên sáng ngời bởi những ngọn lửa sáng lên như đuốc hoa. Những ngọn lửa như đóa hoa lửa vẽ nên bức tranh sáng rực cả khu rừng rậm, làm tan đi bóng tối, xua đi cảm giác lạnh lẽo, mang đến ánh sáng cho không gian xung quanh. Hai từ 'rực sáng' không chỉ ánh sáng từ ngọn đuốc mà còn là 'rực sáng' của ký ức, của những niềm vui và hồi ức tươi đẹp. Lính như là đã quên hết những mệt mỏi, hiểm nguy để hoà mình vào không khí rộn ràng của đêm hội.
Tâm điểm của buổi tiệc là sự xuất hiện của những cô gái xinh đẹp từ vùng núi sơn cước:
'Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.'
Dưới ánh sáng lung linh của ngọn đuốc, giữa âm nhạc đầy sức sống, những cô gái vùng cao hiện lên với vẻ đẹp quyến rũ, dịu dàng, và duyên dáng, khiến các chàng lính không khỏi ngạc nhiên và ngỡ ngàng. 'Kìa em' là tiếng reo lên với niềm vui và sự ngưỡng mộ. Với trang phục tinh tế và vũ điệu đậm chất dân tộc, những cô gái đã thu hút sự chú ý của mọi người xung quanh.
Cảnh tượng và con người hòa quyện với nhau dưới nhịp nhạc, trong những điệu múa đầy cuốn hút, pha chút bí ẩn và hoang dại, làm say đắm lòng người. Tiếng súng đạn tan biến, thay vào đó là những tâm hồn lãng mạn, những 'hồn thơ' đắm chìm trong niềm vui của buổi tiệc.
Sau những kỷ niệm về đêm trại ấm cúng của quân và dân, là nỗi nhớ rất nhớ về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
'Khi ta bước vào dòng sương của Châu Mộc
Đó, hồn ta mơ màng bên bờ'
Buổi chiều sương trôi qua, sông miền Tây hiện ra một vẻ đẹp mộng mơ. Sương mờ ảo bao phủ, tạo nên không gian lãng mạn, huyền bí.
Dọc bờ sông, những bụi lau mùa mưa gió tỏa ra vẻ hoang sơ êm đềm. Những bông lau lay động như có linh hồn, như đang kể lên câu chuyện của riêng chúng. Khung cảnh sông nước hoang vu buồn lắng chợt nhắc nhở về dòng sông Đà trong văn của Nguyễn Tuân.
Sông nước miền Tây không chỉ thể hiện sự hiện thực mà còn chứa đựng nhiều cảm xúc tình cảm. Vẻ đẹp của con người hòa quyện với vẻ đẹp thiên nhiên.
'Nhớ hình ảnh người bên bờ mộc mạc
Trong dòng nước lũ đang rối bời.'
Thiếu nữ Tây Bắc hiện lên trên thuyền mộc, vẻ đẹp uyển chuyển và duyên dáng của cô hòa quyện với sự mạnh mẽ của con thuyền trôi dòng. Hình ảnh này trở thành tâm điểm của bức tranh về sông nước miền Tây. Quang Dũng đã chọn hình ảnh thiếu nữ và 'hoa đong đưa' để tôn vinh vẻ đẹp mộng mơ của miền Tây.
Bài phân tích về khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 8.
Quang Dũng, từng là lính Tây Tiến, đã để lại dấu ấn với bài thơ Tây Tiến viết về kỷ niệm và cảm xúc về quãng thời gian làm lính. Bài thơ này không chỉ nổi tiếng mà còn tôn vinh vẻ đẹp của Tây Bắc và tinh thần chiến đấu của lính Tây Tiến.
Doanh trại sôi động với lửa trại rực rỡ
Em diện trang phục truyền thống từ khi nào
Khèn thổi những giai điệu dịu dàng
Nhạc vang về những hồn thơ tại Viên Chăn
Người đi Châu Mộc trong chiều sương đó
Nhớ hình ảnh người trên chiếc thuyền mộc
Con sông dịu dàng đưa hoa trôi
Từ 'bừng' đã tạo ra sự bất ngờ cho đoạn thơ. Đó là sự sáng lên của lửa trại hay là sự sôi động của tiếng hát và tiếng nhạc? 'Đuốc hoa' từng là biểu tượng của sự đón chào trong đêm tân hôn. Hình ảnh này khiến đêm liên hoan của lính trở nên ấm áp và thiêng liêng.
Đoạn thơ này thể hiện rõ tài năng văn chương của Quang Dũng. Tâm hồn lãng mạn của ông được thể hiện qua việc tả vẻ đẹp huyền bí của con người và cảnh vật ở những nơi xa lạ. Khung cảnh trong thơ không chỉ là hồi ức mà còn là hiện tại, khiến người đọc cảm thấy như đang chứng kiến trực tiếp. Nhà thơ như đang dành lời thơ trìu mến, thích thú cho người vũ nữ, miêu tả vẻ đẹp của cô trong một vũ điệu đầy màu sắc.
Nếu đêm văn nghệ mang lại cho người đọc không khí mê say thì cảnh sông nước Tây Bắc lại tạo ra cảm giác mênh mang, hoang dại, tĩnh lặng và mơ hồ. Khung cảnh Tây Bắc hiện lên trong kí ức của tác giả, gợi lại cảm xúc của anh về một thời xa xưa. Tâm hồn của tác giả như bay bổng trong không gian của núi sương, đèo mây và lớp sương mờ bí ẩn.
Trong chiều sương ấy, ai đi Châu Mộc
Có cảm nhận hồn của lau bên bờ
Hình ảnh này cũng xuất hiện trong thơ của Chế Lan Viên:
Người ở biên giới, hãy cho tâm hồn tôi theo bạn
Thăm những rặng lau trắng trơn chỉ một mình
Bên bờ cõi, ngàn lau trắng
Sống cùng với gió chiến tranh suốt đời
(Lau biên biên giới)
Những câu thơ về hồn lau trong gió đều gợi lên cảm giác của một cảnh buồn vắng, tựa như thời tiền sử, từ thi sĩ Hoàng Hữu:
Bên trường vắng, mưa nhẹ rơi từ xa
Mái nhà cũ rêu phong, mờ mịt nhoà
Người xa xa như hồn lau trong gió
Thổi trắng chân đồi như sương mù pha
(Hoa lau cổ kính)
Trên dòng sông, chiều sương mang hình ảnh cổ điển huyền thoại, thấy một chiếc thuyền mộc nhẹ nhàng trôi, cùng với hình bóng mềm mại của cô gái và những bông hoa lau trôi trên sóng nước lũ:
Nhớ hình ảnh người trên thuyền mộc
Trong dòng nước lũ hoa đong đưa
Câu 'Thi trung hữu họa' được minh chứng rõ ràng trong trường hợp này. Quang Dũng chỉ vẽ lên một vài đường nét nhưng không chỉ thể hiện được 'hồn' của bông lau mà còn vẻ dáng tinh tế của cô gái lái thuyền, với động tác đong đưa tình tứ. Từ 'thấy' và 'nhớ' được sử dụng một cách tinh tế, như thể hình ảnh của bông lau và người lái thuyền đã in sâu vào tâm trí của nhà thơ. Đoạn thơ này thể hiện sự nhạy cảm và tài hoa trong việc lưu giữ hình ảnh của cảnh vật và con người.
Bốn câu thơ như một bức tranh tuyệt vời, truyền đạt được tinh thần của cảnh vật. Đoạn thơ này không chỉ là hình ảnh mà còn là âm nhạc, từ một tâm hồn sâu lắng yêu thương miền Tây Tổ quốc. Đúng như lời của Xuân Diệu: 'Đọc bài thơ Tây Tiến ta có cảm giác như ngậm âm nhạc trong miệng'.
Đoạn thơ này thể hiện rõ bút pháp tài hoa của tác giả, kết hợp hài hòa giữa thơ, nhạc và họa. Nó mang lại cho đọc giả cảm giác của cảnh đêm liên hoan văn nghệ và sự huyền ảo lãng mạn của sông nước Tây Bắc.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 9
Tây Tiến được coi là biểu tượng của tình yêu và lòng quyết tâm của anh hùng Vệ quốc quân, những chiến binh dũng cảm trong cuộc kháng chiến: “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (Nhớ — Hồng Nguyên), những người lính sẵn sàng hy sinh vì đất nước với lời thề “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, ven sông Đáy: “Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc — Sáo diều khuya khoắt thổi đèn trăng’’ (Đôi mắt người Sơn Tây - 1949). Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập vào năm 1947, hoạt động và chiến đấu tại thượng nguồn sông Mã, miền Tây Hòa Bình, Thanh Hóa và sầm Nưa, trên biên giới Việt — Lào. Quang Dũng là một đại đội trưởng trong đoàn binh Tây Tiến, đồng đội của anh là những người con Hà Nội yêu nước, dũng cảm và tài năng. Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của tác giả sau thời gian dài rời xa đơn vị: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! - Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi...”.
Bài thơ bao gồm bốn phần. Phần đầu nói về nỗi nhớ, nhớ sông Mã, nhớ về miền Tây với những nẻo đường khó khăn của cuộc hành trình chiến đấu... Đoạn thơ này gồm 16 câu, là phần hai và phần ba của bài thơ ghi lại những kỷ niệm đẹp của một quãng thời gian gian khổ, những hình ảnh tự hào về đồng đội thân thiết.
Ở phần đầu, sau hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, người đọc sẽ cảm thấy xúc động trước vần thơ ấm áp, tinh tế và đầy cảm xúc:
Nhớ Tây Tiến, cơm nổi mùi khói bay
Mai Châu mùa em thơm hương nếp xôi.
Bát cơm hương khói bay, mang đậm tình thương quê hương, hương của 'thơm bữa cơm', hương của núi rừng, của Mai Châu.. và hương của tình thương mến.
Phần thứ hai bắt đầu bằng hình ảnh thơm của 'bữa cơm', một hương vị mà tác giả rất quý trọng. 'Hội đuốc hoa' đã trở thành kỷ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, là hành trang tinh thần của các chiến binh Tây Tiến:
Doanh trại sôi động trong ánh đuốc hoa
Thấy người mặc áo xinh đẹp kia
Khèn hò một giai điệu dịu dàng
Âm nhạc làm chuyển động linh hồn
'Đuốc hoa' là cây nến sáng trong phòng cưới, đêm tân hôn, từ ngôn từ được sử dụng trong văn học cổ: 'Đuốc hoa chẳng thể giấu được niềm vui của hai đứa trẻ' (Truyện Kiều). Quang Dũng đã sáng tạo lại thành 'hội đuốc hoa' - đêm lửa trại, đêm liên hoan trong doanh trại của đoàn binh Tây Tiến. 'Sôi động' không chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng lên; nó cũng ám chỉ tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười rộn ràng. Sự xuất hiện của 'người', của 'ánh sáng mặt trời' khiến cho hội đuốc hoa mãi mãi là kỷ niệm đẹp trong lòng các chiến binh trẻ. Những cô gái Mường, Thái, Lào xinh đẹp, dịu dàng 'e ấp', trong bộ trang phục rực rỡ, cùng với tiếng khèn 'dịu dàng' đã 'làm sống lại tinh thần thơ' trong lòng các chiến binh trẻ. Chữ 'thấy' là một cách để trấn an, để khẳng định, đứng đầu câu 'Thấy người mặc áo xinh đẹp kia' như một lời mời gọi, một điều không thể tưởng tượng. Mọi gian khổ, mọi thử thách, đều tan biến và không còn là vấn đề.
Rời xa Tây Tiến, đã bao lâu rồi, nhưng nhà thơ vẫn 'nhớ mãi', nhớ về 'hội đuốc hoa', nhớ về 'Châu Mộc chiều sương ấy'. Liệu 'người đi' hay tự mình hỏi 'có thấy' và 'có nhớ'. Bao kỷ niệm sâu sắc và lãng mạn lại hiện lên và tràn về:
Châu Mộc chiều sương kia
Có thấy hồn lau ven bờ
Có nhớ dáng người trên thuyền mộc
Trôi dòng nước lũ hoa múa lay.
Chữ 'kia' kết hợp với 'thấy', một cặp vần lưng thần tình, câu thơ trĩu xuống như một nốt nhạc, một lời nhắc nhở trong hoài niệm nhiều bâng khuâng. Người xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ 'hồn thu thảo', giờ Quang Dũng nhớ là nhớ 'hồn lau', nhớ cái xao xác của gió, nhớ những cờ lau trắng trời. Có 'nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi' thì mới có nhớ và 'có thấy hồn lau' trong ký ức. 'Có thấy'... rồi lại 'có nhớ', một cách viết uyển chuyển tài hoa, đúng là 'câu thơ trước gọi câu thơ sau' như những ký ức trở về... Nhớ cảnh (hồn lau) rồi nhớ người (nhớ dáng người) cùng con thuyền mộc 'trôi dòng nước lũ hoa múa lay'. Hình ảnh “hoa múa lay” là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái “dáng người trên thuyền mộc” trôi theo thời gian và dòng ký ức. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên nền “chiều sương kia”. Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác, bâng khuâng. Phong cách viết, thơ học của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.
Trong những “bến bờ”, “thuyền mộc”, “dòng nước lũ” là “hồn lau”, là “dáng người”, là “hoa múa lay” tất cả được phủ mờ bởi màn trắng mỏng của một “chiều sương” hoài niệm. Tưởng là siêu thực nhưng lại lãng mạn, tài hoa.
Hai đoạn thơ trên thể hiện tinh thần và phong cách lãng mạn, thơ ca tài hoa của Quang Dũng. Nếu 'thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao quý' thì Tây Tiến đã mang lại cảm giác đó. Tây Tiến đã mang đến vẻ đẹp đặc biệt của một bài thơ viết về người lính - anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này tổng hợp mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi tinh thần yêu nước và tinh thần anh hùng cách mạng của Việt Nam.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 10
Toàn bộ đoạn thơ là một bức tranh tuyệt vời về thiên nhiên tươi đẹp, kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Cảnh vật miền Tây trong bài thơ dường như được vẽ ra theo phong cách truyền thống: 'Thơ có họa, thơ có nhạc'. Một miền Tây lãng mạn, tinh tế, cuốn hút được tạo nên. Đoạn thơ thứ hai được xem là ví dụ điển hình cho nghệ thuật viết của Quang Dũng.
Doanh trại sáng rực trong hội đêm
'Sáng rực' đồng thời đặc biệt và thú vị. Cảnh vật và tâm trạng của nhân vật đều rực rỡ. Bút pháp của Quang Dũng được thể hiện rõ ngay từ câu đầu tiên. Hai từ 'sáng rực' và 'hội đêm' cho thấy sự tinh tế trong lựa chọn từ ngữ. Chúng vừa diễn đạt hiện thực vừa mang tính lãng mạn. 'Sáng rực' không chỉ ánh sáng lung linh mà còn như sự tỉnh táo.
'Hội đêm' là hình ảnh thực tế. Buổi liên hoan diễn ra dưới bóng rừng, mọi người đều cầm đuốc, gió làm cho những ngọn đuốc tỏa sáng. Cảnh này thực sự giống như hoa đuốc. Quang Dũng cảm nhận tinh tế và lãng mạn, câu thơ đầy sức mạnh tưởng tượng, cho người đọc một trải nghiệm tuyệt vời. Trên bức tranh đêm đó, 'em' trở thành tâm điểm thu hút mọi ánh nhìn.
Thấy em ở đó trong trang phục trắng xinh đẹp
'Kìa em' tiếng chào ngạc nhiên tràn đầy hạnh phúc, khiến người ta ngỡ ngàng. Lời chào này mang đậm tính khám phá, phát hiện. Em quen mà lạ, lạ mà quen. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp lộng lẫy của cô gái với sự yêu thương, sự say mê và sự ngưỡng mộ. Tình yêu lan tỏa từ dáng vẻ đến trang phục. Trang phục truyền thống của các cô gái Tây Bắc, đậm chất văn hóa, tôn vinh thêm vẻ đẹp của họ, khiến Quang Dũng không khỏi ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Em trở thành trung tâm của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ xa xôi. Câu thơ thứ ba ngay lập tức mang lại âm nhạc cho khổ thơ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Âm thanh từ nhạc cụ của người dân Tây Bắc đối với lính Tây Tiến không chỉ lạ mà còn mang vẻ hoang dã, chân chất văn hóa dân tộc. Sự lạ mà đầy sức sống này làm cho những người lính Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa say mê. Từ 'man điệu' mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc cảm thấy như đang tham gia vào những vũ khúc hoang dã của văn hóa dân tộc. Vũ khúc đó hòa quện với vũ điệu của Em, dịu dàng, ấm áp. Chúng ta chú ý đến cách tác giả sử dụng từ ngữ: Ban đầu là 'em', tiếp đó là 'nàng', rồi lại là 'em'. Từ cách sử dụng đó, chúng ta cảm nhận được Em như một nàng tiên xinh đẹp, khiến chúng ta lạc vào cõi tiên với không khí mê say đến đắm chìm. Trong bầu không khí của âm nhạc và vũ điệu, tâm hồn của các lính Tây Tiến thực sự bị cuốn hút, say mê trước vẻ đẹp của Em và cảnh vật.
Sẽ là thiếu sót nếu chúng ta dừng lại ở đây. Vì lẽ đó, bốn câu tiếp theo mới thực sự đẹp đẽ. Cả bốn câu đều là mảnh ghép của vẻ đẹp Tây Bắc, tạo nên cảm giác mênh mông và huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương kia
Có thấy hồn lau dọc bờ bến
Có nhớ dáng người trên thuyền lục bình
Trôi dòng nước lũ hoa rối bời.
Một không gian mênh mông bao phủ bởi sương khói như trong tranh mộng hiện ra. Vẻ thực của không khí Tây Bắc, hòa quyện với bức tranh mơ mộng của sương khói, tạo nên một cảnh tượng như trong truyện cổ tích. Nhớ rằng Quang Dũng cũng là một họa sĩ, nên đoạn thơ mang đậm dấu ấn của nghệ thuật hội họa. Nét vẽ tinh tế của Quang Dũng thực sự là điều đáng ngưỡng mộ. Chỉ với vài đường nét, cảnh vật và con người hiện ra sống động và hấp dẫn.
Không gian dòng sông buổi chiều phủ một màu sương mờ, những bờ cát hoang dã như một phần của thế giới tiền sử. Những cây lau được tưởng tượng có linh hồn, không còn là bình thường. Chỉ có những tâm hồn thơ mộng, tinh tế và lãng mạn mới có thể cảm nhận được hồn lau nơi những cây lau bên bờ. Khung cảnh thơ mộng ấy làm nền cho nhân vật thơ xuất hiện:
Có nhớ hình bóng trên chiếc thuyền độc mộc
Câu thơ không mô tả mà gợi lên hình ảnh của cô gái mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh vật thơ mộng và con người tình cảm. Điều này khiến tác giả mê đắm trước cảnh và người, ở đây cảnh vật và con người hòa quyện nhau một cách tuyệt vời.
Dòng nước trôi cuốn hoa đong đưa
Vẻ duyên dáng tột cùng và tình tứ đến đỉnh điểm: Hoa rừng đang đong đưa mà cũng lẫn vào vẻ duyên của người. Khung cảnh và con người hoà quyện hòa mình, tình tứ đến mê đắm trong ánh nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta cảm nhận đây là thế giới của những cõi mơ màng, cõi thơ ca và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh tuyệt đẹp của Tây Bắc. Ai nói rằng Tây Bắc chỉ là xứ rừng thiêng nước độc, hãy để tâm hồn chìm đắm vào vẻ đẹp thơ mộng của Tây Bắc.
Đoạn thơ này thể hiện sự tài hoa và lãng mạn của Quang Dũng một cách hoàn hảo. Xin cảm ơn nhà thơ đã dẫn dắt chúng ta trên chuyến hành trình đến với Tây Bắc thơ mộng, để chúng ta hiểu và yêu quý Tây Bắc hơn.
Phân tích đoạn 2 Tây Tiến - Mẫu 11
Thơ luôn là tiếng lòng của những nghệ sĩ, là cây đàn tình cảm biểu lộ những trạng thái khác nhau của con tim. Thơ là cầu nối giữa những trái tim, nối kết giữa người viết và người đọc. Bài thơ 'Tây Tiến” của Quang Dũng thực sự là tiếng nói sâu lắng của độc giả. Đọc đoạn 2 của bài thơ, ta cảm nhận sâu sắc về những kỷ niệm và nỗi nhớ, qua đó tác giả thể hiện rõ vẻ đẹp lãng mạn và hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến.
Bốn câu thơ đầu tiên miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm xúc tinh tế của các chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại:
“Đám trại lung linh hội ánh hoa
Ở đó em diện áo tỏa nét dịu dàng
Khèn reo vang man mác, em e ấp
Âm nhạc rói rồi vang khắp không gian”
Câu thơ đầu tiên phát ra như một tiếng reo vui sướng. Đây là lần thứ hai, 'lửa” và 'đuốc” được liên tưởng tới hoa trong đêm sương ở Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn thấy đuốc sáng lung linh như 'hoa về trong đêm hơi”, lần này trong đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây. Nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn khiến ánh lửa bùng cháy trở thành đuốc hoa rực rỡ, gợi liên tưởng tươi vui và tình tứ, mang lại niềm vui sảng khoái, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành một buổi hội tưng bừng. Cụm từ 'bừng lên” như một nốt nhạc tươi sáng cho toàn bộ câu thơ, không chỉ mang lại ấn tượng về ánh sáng chói lọa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi bóng tối, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung những ánh mắt ngỡ ngàng, những khuôn mặt rạng rỡ của những anh chiến sĩ do ánh lửa chiếu sáng, ấm lòng chiến sĩ, ngọn lửa của niềm vui, trẻ trung, lạc quan, tin tưởng vào tương lai.
Hình ảnh trung tâm của buổi hội đuốc hoa là các cô gái miền sơn cước 'Kìa em diện áo từ lúc nào”. Từ 'kìa” và từ nghi vấn 'tự bao giờ” bộc lộ cảm giác vừa ngạc nhiên vui mừng, với sự ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, mưa rừng và thú dữ,… 'Man mác” có thể hiểu là những vũ điệu uyển chuyển của các cô gái, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào vừa hoang dã, vừa bí ẩn, vừa mới mẻ lạ lùng làm mê hoặc trái tim. Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say mê chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn bay bổng, phiêu diêu trong thế giới mộng mơ, để xây 'hồn thơ”.
Trong dòng chảy vô tận của thời gian, những ký ức bất ngờ lắng xuống sâu ở một buổi chiều sương mơ màng:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Nét vẽ tinh tế, mềm mại đã tạo nên một bức tranh thuỷ mặc với hồn lau bên bến, hơi sương mờ mịt cùng con người trên chiếc thuyền độc mộc và cánh hoa trôi trên dòng nước lũ. 'Chiều sương” phủ lên cảnh vật một lớp u buồn phảng phất. Chữ 'ấy” kết hợp với 'thấy” tạo âm điệu câu thơ trĩu nặng như một nốt nhấn, như một lời nhắc nhở trong hoài niệm bâng khuâng. Dưới ảnh hưởng của nỗi nhớ, những bông hoa lau chập chờn, lay động trên bến bờ dường như cũng có hồn. Nếu từ 'đung đưa” gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rụng rời đôi bờ sông thì hình ảnh 'hoa đong đưa” không chỉ dừng lại ở nghĩa cụ thể mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu dàng, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng.
Bức tranh thiên nhiên của Tây Tiến được Quang Dũng thổi hồn vào cảm xúc sâu lắng, những đường nét ấn tượng về hội hoạ và âm nhạc trong trẻo. Đây là nền tảng hoàn hảo để người lính Tây Tiến hiện diện một cách kiêu hãnh và mạnh mẽ. Trên nền đó, tâm hồn và tài năng của nhà thơ được khuấy động bởi sự say mê trong cảm xúc và tài hoa của nghệ thuật.
Dù trang sách đã đóng lại nhưng những vần thơ của Quang Dũng vẫn vẹn nguyên để cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ gửi gắm mãi mãi trong tâm hồn con người trở thành một nỗi niềm chung.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 12
Bài thơ được tác giả chia thành 4 phần. Phần 1 tiết lộ nỗi nhớ về những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ. Phần 2 là những kỷ niệm đẹp về tình đoàn kết trong những buổi liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Phần 3 tái hiện chân dung của người lính Tây Tiến. Phần 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ in sâu dấu ấn của tài hoa, lãng mạn và phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.
Trong ký ức của Quang Dũng không chỉ có những ngày tháng gian khổ với đèo cao, mưa rừng, thú dữ, sương phủ mà còn có cả ánh sáng hội hè của những đêm tiệc tưng bừng và những buổi chiều êm đềm, mơ màng.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu , nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cảnh một đêm tiệc văn nghệ của lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được mô tả bằng những chi tiết sống động và mơ mộng. Từ “bừng lên” kết hợp với hình ảnh đẹp “ đuốc hoa” miêu tả không khí sôi nổi, doanh trại sáng rực, lung linh ánh lửa đuốc khi đêm văn nghệ bắt đầu. Tiếng reo “kìa em xiêm áo tự bao giờ” thể hiện sự ngạc nhiên, say mê của các anh lính Tây Tiến trước vẻ lộng lẫy bất ngờ của các cô gái nơi núi rừng. Các cô gái chính là trung tâm, là linh hồn của đêm tiệc có vẻ đẹp e ấp, tình tứ, mềm mại, duyên dáng trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “ man điệu” đã thu hút hồn vía của các chàng trai Tây Tiến. Không khí của đêm tiệc còn ngây ngất hơn bởi tiếng khèn rạo rực, réo rắt khiến cho cả con người, cảnh vật như say mê, trở nên phong phú, sinh động như muốn “ xây hồn thơ” lãng mạn. Đây cũng chính là tâm hồn hào hoa, tinh tế của Quang Dũng.
Nếu cảnh đêm tiệc mang lại cho người đọc không khí háo hức thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh mang, mơ hồ:
Em đi Châu Mộc chiều sương kia
Có thấy hồn lau dọc bờ sông
Còn nhớ hình bóng trên thuyền gỗ
Dòng nước lũ hoa đong đưa.
Ngòi bút của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Những hình ảnh “chiều sương kia”, “hồn lau”, “dọc bờ sông”, “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có thấy”, “còn nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong kí ức. Sương mờ phủ khắp không gian, bờ sông lặng lẽ hoang dã, trên sông xuất hiện một hình bóng mềm mại, uyển chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền gỗ, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Cảnh như có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thuỷ hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền Tây - tâm hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến trước cái đẹp.
Trong hai đoạn thơ sau, nhà thơ không miêu tả cảnh thiên nhiên nữa mà tập trung vào khắc hoạ chân dung người lính Tây Tiến và nỗi nhớ miền Tây bằng những nét vẽ khoẻ khoắn, mạnh mẽ, gân guốc đậm chất bi tráng.
Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
Phân tích khổ 2 Tây Tiến - Mẫu 13
Khi ta đến, đất chỉ là nơi chốn
Khi ta rời đi, đất trở thành tâm hồn”
Như Chế Lan Viên đã viết, lòng thương nhớ luôn tràn ngập trong trái tim khi ta yêu thương, kết nối đầy đủ. Nhà thơ Quang Dũng cũng từng gắn bó với Tây Bắc, từng “súng bên súng, đầu sát bên đầu” với những người đồng đội và chính những tình cảm ấy đã gợi lên nỗi nhớ, thúc đẩy ông viết nên bài thơ Tây Tiến với những kỷ niệm tươi đẹp hiện lên rực rỡ qua khổ thơ thứ hai.
Đến khổ thơ thứ hai, kí ức về thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến. Những kỷ niệm khó quên nhất có lẽ là những đêm liên hoan dưới bóng lửa trại:
“Doanh trại sáng rực trong đêm hội hoa
Kìa em đẹp tựa hoa rừng sáng ngời
Âm thanh man mác, nàng thơ e ấp
Âm nhạc vang vọng xây hồn thơ.”
Đêm hội trở nên vui vẻ, ấm áp và quyến rũ hơn, khi có “em” hiện diện nhẹ nhàng, duyên dáng, e ấp, thướt tha. Đoạn thơ vẽ lên bức tranh đêm hội sáng ngời, ấm áp dưới ánh đuốc hoa. Nếu Mai Châu thu hút với hương vị cơm nếp thơm ngon,... thì Châu Mộc mang lại vẻ đẹp mộc mạc, đậm chất thơ:
“Khi ta tới Châu Mộc chiều sương kia
Hồn lau nơi bờ bến gợi nhớ xa xưa
Dáng người trên thuyền gỗ mộc mịch
Nước lũ hoa đong đưa mãi không ngừng.”
Bốn câu thơ đưa ta trở lại kí ức của miền đất lạ, Châu Mộc, với vẻ đẹp hoang sơ đã chạm vào lòng nhiều người.
“Khi ở đây, đất chỉ là nơi trú ngụ
Khi ra đi, đất trở thành hồn mình.”
(Chế Lan Viên)
Nỗi nhớ kéo dài, làm lòng nặng trĩu hoài niệm, lấp đầy sự cô đơn. Hoa đong đưa trên dòng nước liệu có phải là hoa rừng lung linh hay là hình ảnh của cô gái xinh đẹp miền Tây Bắc? Thuở xưa, núi rừng Tây Bắc hoang sơ nhưng cũng đầy nên thơ và lãng mạn, với cảnh đẹp và con người. Bức tranh chiều sương ở Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của một danh họa.
Tác phẩm Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng đã thành công rực rỡ khi miêu tả những chiến binh hùng hậu, dũng cảm, và lãng mạn, in dấu sâu trong lòng người đọc.
“Anh hùng vô quốc hồn thơ phơi phới
Làm sao lòng không say mê mãi mãi !”
(Tố Hữu)
..............
Tải file tài liệu để đọc thêm về phân tích khổ 2 Tây Tiến