Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh 'êm ấm, dịu dàng trướng rủ màn che', Kiều đã trở thành một món hàng trong thị trường mua bán của Mã Giám Sinh và bây giờ nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã rõ ràng thể hiện bức tranh tâm cảnh của Kiều.
Sống ở lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
Trước lầu Ngưng Bích cửa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần gũi.
Bốn bề bát ngát xa xa,
Cát vàng cồn kia bụi hồng nơi ấy.
Mây sớm đèn khuya vần vần,
Nửa tình nửa cảnh như chia đôi lòng.
Kiều bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích, hai chữ 'cửa xuân' đã diễn đạt điều đó. Cửa xuân ở đây không chỉ nói về những cô gái còn trẻ mà còn là sự châm biếm, buồn thương cho thân phận của Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian vô hạn, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh xa xứ, cô đơn, tương lai mơ hồ. Trong khi những nỗi đau vừa trải qua vẫn còn đang rực lửa, giờ đây Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô uế. Trong tình cảnh đó, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng lòng mình từng chút một. Tâm trạng của Kiều lan tỏa theo cái nhìn ra khung cảnh. Nhìn lên trên là vầng trăng lẻ loi, nhìn xuống đất thì bên kia cồn cát nổi sóng, bên kia bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích như một chấm nhỏ giữa thiên nhiên hoang sơ, giữa vùng trời đất lớn. Cái lầu cao ngất ngưởng ấy giam hãm một thân phận bất hạnh. Không có bóng người, không có sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên yên bình làm bạn. Kiều chỉ có một mình để kể chuyện, để đối mặt với chính mình. Trong cái không gian hẻo lánh và thời gian dài đầy đáng sợ, vòng quay của thời gian như kẹp kín con người, như vẽ thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy tủi nhục và đau buồn. Sáng và tối, ngày và đêm Kiều ở đây một mình giữa đất khách quê người, nàng chỉ biết âm thầm kể lể với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tột cùng ấy, trái tim Kiều bao bọc bởi những nỗi đau chua xót. Buồn vì cảnh trơ trọi, lo sợ và buồn vì tình cảm riêng khiến trái tim nàng như bị xé ra đôi:
Nửa tình nửa cảnh như chia thành hai nửa lòng.
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã miêu tả rõ những tâm trạng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, bi thương tột cùng và đó là những dư vị của những ngày tháng gian khổ đang ồn ào.
Tạm quên đi những đau khổ trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:
Chắc người ở dưới nguyệt hồng,
Tin sương rạng nắng chờ mong ngày mai.
Ngược lại với truyền thống xưa, Kiều nhớ đến người yêu trước khi nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau của mối tình đã vỡ như còn đang chảy máu, những kí ức vẫn còn sâu trong lòng. Ngoài ra, Kiều lại bị Mã Giám Sinh nhục dục, sau đó bị giam giữ ở lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:
Dù cho son nàng màu nào,
Vì lẽ đó, người đầu tiên mà Kiều nhớ tới là Kim Trọng. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán thân nên phần nào đã trả được công ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỡ hẹn. Trong tình cảnh như thế, việc Kiều nhớ Kim Trọng trước tiên là sự tinh tế của bút pháp Nguyễn Du. Nhớ về người yêu là nhớ về đêm trăng hứa hẹn. Cách đây không lâu, nàng và Kim cùng uống rượu trao lời thề với nhau, một lòng cùng nhau một đời nhưng giờ đây mối duyên tình đã đoạn tuyệt. Câu thơ như đập vào trái tim đang chảy máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn hằng ngày chờ đợi nàng mà uổng công vô ích. Càng nhớ Kim bao nhiêu, Kiều lại thương cho mình bấy nhiêu. Thương cho mình đơn côi bên trời góc biển, càng nuối tiếc mối tình đầu, nàng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho Kim chẳng bao giờ phai mờ. Không chỉ thế mà tấm son đã bị nhòa mờ bởi nước mắt của nàng, khi nào mới rửa sạch được. Trong nỗi nhớ còn có nỗi tiếc nuối, ân hận. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã để lòng mình yên lặng và nhớ về Kim. Đó là sự tha thứ và lòng trung thành của một con người.
Nếu nhớ đến Kim Trọng, Kiều nhớ đến cha mẹ Kiều đầy bi thương:
Xót cho cha dưới trăng mai,
Quạt về mát lạnh người đâu sáng mai?
Sân Lai cách đây mấy mùa trước,
Có lúc gốc tử đã kề vai gối đây.
Cha mẹ yêu thương từ bao giờ vẫn luôn mong chờ tin tức từ đứa con xa xôi. Nỗi lòng đau thương và lo lắng vẫn không nguôi vì không thể che chở họ trong giai đoạn tuổi già mong manh. Câu thành ngữ 'che chở nồng ấm, lòng hiếu thảo' đã thể hiện sự nhớ nhung và lòng hiếu khách của Kiều. Nàng tưởng tượng quê nhà đã trải qua bao nhiêu biến cố. Cha mẹ đã già thêm mỗi lần và Kiều không thể ở lại để chăm sóc họ. Khoảng cách giữa nàng và cha mẹ giờ đây chỉ là một khoảng cách như nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá cả con người. Mỗi khi nhớ đến cha mẹ, Kiều cũng nhớ ơn sâu đậm và luôn hối tiếc vì không thể đền đáp công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng vẫn trôi vào dòng thời gian, vào không gian vô tận, khiến nó trở nên thêm sâu sắc, thấm đẫm. Mặc dù đau buồn, nhưng trái tim Kiều vẫn đong đầy tình yêu thương, lòng nhân hậu và lòng vị tha. Nàng là người yêu thương trung thành, là người con hiếu thảo, là người mang trong mình tấm lòng vị tha quý báu. Hai nỗi nhớ được biểu hiện một cách khác biệt nhưng đều thể hiện sự đồng cảm lạ lùng của nhà thơ, lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.
Vẫn tiếp tục sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với những lý do khác nhau, trong lòng Kiều đã tình buồn tác động lại khiến cảnh buồn trở nên u ám hơn và nỗi buồn ngày càng trở nên mãnh liệt hơn:
Buồn nhìn cửa biển chiều hôm nay,
Thuyền ai mờ mịt cánh buồm xa xăm?
Buồn nhìn dòng nước mới sa lạnh,
Hoa rơi lặng lẽ, biết về đâu?
Buồn nhìn đám cỏ lạ rạc,
Chân mây, mặt đất, một màu u buồn.
Buồn nghe gió thổi mặt duềnh,
Ấm ấm tiếng sóng vỗ quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ không chỉ là bức tranh tâm cảnh mà còn là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn phương và từ xa đến gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều nhìn thấy là cảnh cửa biển vào buổi chiều tà:
Buồn nhìn cửa biển chiều hôm nay,
Thuyền ai mờ mịt cánh buồm xa xăm?
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà đều gợi lên nỗi buồn. Trong khung cảnh đó chỉ có một chiếc thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm mờ mịt xa xa như một hình ảnh mơ hồ. Cảnh đã gợi trong lòng người con xa xứ nỗi buồn nhớ cha mẹ, nhớ quê hương xa cách, nỗi cô đơn và khao khát sự sum họp. Cánh hoa rơi lặng lẽ trên dòng nước mới sa gợi lên trong lòng Kiều nỗi buồn về số phận lênh đênh, không biết sẽ bị đưa đi đâu, sẽ bị lạc vào đâu:
Buồn nhìn dòng nước mới sa lạnh,
Hoa rơi lặng lẽ, biết về đâu?
Cảnh làm Kiều thấy xót xa về số mệnh, cuộc đời của mình. Sau một dòng biển, một bông hoa giữa dòng nước là cảnh của một đám cỏ:
Buồn nhìn đám cỏ lạ rạc,
Chân mây, mặt đất, một màu u buồn.
Cả một đám cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh Minh. Đó là cỏ vàng úa gợi lên sự héo rũ, buồn bã. Màu xanh nhạt kéo dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu của sự sống, của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán chường vô vọng về cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô đơn này không biết khi nào mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mơ hồ, thân phận của một đám cỏ hoa nghèo khó của Thuý Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau tiếng gió thổi:
Buồn nghe gió thổi mặt duềnh,
Ấm ấm tiếng sóng vỗ quanh ghế ngồi.
Tiếng sóng vỗ như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ mơ hồ mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ mịt bởi nó được nhìn theo quy luật 'Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Và đó cũng là biểu hiện, là đại diện của quá khứ đau buồn, hiện tại tịch mịch bất hạnh và dấu hiệu của một tương lai kinh hoàng. Tất cả đều là hình ảnh về sự không chắc chắn, mong manh, vô vọng, sự trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và các cặp câu được kết nối nhờ điệp ngữ buồn nhìn:
Buồn nhìn cửa biển chiều hôm nay,
Buồn nhìn dòng nước mới sa lạnh,
Buồn nhìn đám cỏ lạ rạc,
Buồn nghe gió thổi mặt duềnh,
Buồn nhìn là nhìn xa nhưng mong chờ một cái gì đó mơ hồ sẽ đến và làm thay đổi hiện tại nhưng nhìn mà thấy vô vọng. Buồn nhìn có sự thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cảm giác dự cảm kinh hãi của người con gái lần đầu tiên lạc bước giữa cuộc đời với những gánh nặng. Điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh đằng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều cường độ khác nhau, trào dâng từng lớp như những con sóng. Điệp ngữ tạo ra những vần điệu cân bằng, gợi âm hưởng buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến tận cùng. Buồn nhìn trở thành điệu nhảy của đoạn thơ cũng như của tâm trạng. Với một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tâm trạng cực kỳ độc đáo và cảm động. Khúc ca kết thúc với những dư âm của sóng biển, sóng lòng, sóng đời đang vang lên những tiếng kêu gào của hiểm nguy như muốn quật ngã, chìm đắm người con gái cô đơn, đáng thương trên chiếc ghế đời mong manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để rồi bị mê hoặc và bước vào cuộc đời thanh lâu hai lần, thanh y hai lần. Để thể hiện tâm trạng phức tạp của mỗi nỗi buồn, Nguyễn Du đã lựa chọn cách thể hiện tình trong cảnh đó, cảnh trong tình này thực sự độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt vời với bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh phong phú về cảnh vật và tâm trạng mà Kiều đang trải qua, dự báo những sóng gió dữ dội mà nàng sẽ phải đối mặt trong mười lăm năm lưu lạc, thanh lâu hai lần, thanh y hai lần. Đoạn thơ mang giá trị nhân văn sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân ái, cảm thông của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.