Phân tích đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' trích từ 'Truyện Kiều' đề cập đến những 'Câu thơ chứa đựng nỗi đau của con người' (theo Tố Hữu). Nhiều biến cố kinh hoàng đã xảy ra: tai nạn, cha và em bị buộc tội, tài sản bị kẻ gian 'đầu trâu mặt ngựa' cướp 'sạch sành sanh...', phải bán thân giải oan cho cha, hiến dâng duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh - Tú Bà. Sau khi bị Mã Giám Sinh 'lạm dụng', bị Tú Bà sỉ nhục, Kiều cố tự vẫn nhưng được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều:
'Người còn thì cùa hãy còn,
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà...'.
Kiều được Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa 'con hãy thong dong” nhưng thực chất là nàng bị giam cầm. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên hành trình lưu lạc đầy nước mắt, đắng cay và nhục nhã trong 15 năm qua.
Sáu câu đầu đoạn tạo ra một không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng thời. Có 'non xa' và 'tấm trăng gần': có 'cát vàng cồn kia” và “ bụi hồng dặm kia'. Giữa một thiên nhiên vắng vẻ và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết 'Bổn bề bát ngát xa trông'. Một cảm giác cô đơn. buồn rầu và bế tắc cho số phận mình, duyên số mình. Chỉ còn một mình đối mặt với 'mây sớm đèn khuya', nỗi lòng con gái lưu lạc đau khổ, đắng cay và chán chường không lối thoát:
'Chán chường mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng'.
Bốn từ 'như chia tấm lòng' diễn đạt một nỗi niềm, một nỗi đau lòng tan nát, đau thương. Vì vậy, dù sống giữa một bức tranh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần - nhưng nàng vẫn cảm thấy cô đơn, chán chường, bởi 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kiều không thể tránh khỏi sự cô đơn, chán chường trong một tình huống đầy bi kịch:
'Trên bờ bên người nước non,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu”
Tám câu thơ tiếp theo nói về niềm nhớ người yêu và nỗi đau thương cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình tại lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều tưởng nhớ. Với cha mẹ thì nàng đã 'xót người..” mỗi đối tượng Kiều có một nỗi thương nhớ riêng.
Trên đường trở về Lâm Tri cùng Mã Giám Sinh. Kiều nhớ Kim Trọng cô đơn, đau khổ 'Một trời thu để riêng ai một người'. Đối với cha mẹ Kiều đau đớn 'Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn'. Lần này, Kiều nhớ về chàng Kim, nhớ lời thề dưới ánh trăng tình tự 'dưới nguyệt chén đồng', thương người đợi đau khổ 'rày trông mai chờ' và 'bơ vơ' cô đơn, buồn bã. Đến bao giờ mới hết, mới 'phai” được nỗi nhớ thương ấy? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách xa như: 'dưới nguyệt chén đồng' tin sương”, 'rày trông mai chờ, 'bên trời góc bể”, 'tấm son gột rửa...” đã diễn tả và phản ánh một cách sâu sắc tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì hoàn cảnh mà phải chia lìa đau đớn:
'Tường người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Các động từ - vị ngữ: 'tưởng”, 'trông”, 'chờ”, 'bơ vơ”, 'gột rửa”, 'phai” đã kết hợp thành một hệ thống ngôn ngữ độc thân biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu không nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son mà tan vỡ!
Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: 'hôm mai”, 'cách mấy nắng mưa”, các biểu tượng, điển cố văn học Trung Hoa : 'sân Lai”, 'gốc tử” và thành ngữ 'quạt nồng ấp lạnh”, đặc biệt hình ảnh mẹ già 'tựa cửa hôm mai đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thân kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo ra những dòng thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong cuộc chia ly 'trâm gãy gương tan' nàng vẫn dành cho 'người tình chung” bao tình thương nhớ 'muôn vài ái ân”. Là một đứa con hiếu thuần, giàu lòng hi sinh, khi cha mẹ già yếu không được chăm sóc sớm, Kiều càng nhớ thương, càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau củ a nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người suốt bao năm qua:
'Xót lòng tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?”
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Tám câu cuối đoạn, điệp ngữ 'buồn trông' lặp lại bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu 6 của mỗi cặp lục bát. Mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng 'buồn trông”. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và biến diễn tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:
'Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. 'Thuyền ai' lúc ẩn lúc hiện 'thấp thoáng cánh buồm xa xa' đầy ám ảnh. 'Buồn trông' con thuyền 'ai ' xa lạ, cánh buồm xa xa'thấp thoáng”, Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách.
Sau đó, nàng lại 'u buồn' nhìn về phía 'ngọn sông mới trôi', theo dõi những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi 'đi đâu', đến một phương trời không rõ ràng nào. Những cánh hoa trôi ấy biểu hiện cho số phận lênh đênh trên dòng đời không biết đi về đâu, Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn sông và cảm thấy thương cho số phận của mình:
'Buồn nhìn ngọn sông mới trôi.
Hoa trôi ẩn hiện không biết đi về đâu'
Sau hai câu hỏi ôn hòa về 'thuyền nào', về hoa trôi không biết đi đâu . Kiều 'buồn nhìn' về tất cả các hướng 'dưới trời mây trên đất', trên mặt đất, nàng chỉ thấy trên một nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc phai nhạt, vàng úa 'chát chua' của cỏ cây. Màu sắc nhạt nhòa ấy đã thể hiện nỗi đau nhạt nhòa của người con gái lưu lạc giữa cuộc sống khắc nghiệt:
'Buồn nhìn cỏ cây úa phai,
Dưới bầu trời và trên đất, một màu xanh xanh'.
'Nơi cỏ héo úa” hiện lên giữa màu 'xanh xanh' nhạt nhòa của 'dưới bầu trời và trên đất' chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi suy nghĩ về tương lai mờ mịt, héo úa của mình, màu cỏ 'hé rũ' ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mộ Đạm Tiên:
'Xẻo xẻo ôm đất ven đường,
Hé rũ bãi cỏ nửa vàng nửa xanh'.
Nhìn xa rồi nhìn gần, đồng thời 'buồn trông' và lắng nghe. Nghe tiếng gió, gió thét, 'gió vòn' trên mặt đất. Nghe tiếng 'gầm gừ” của sóng, không phải là sóng hát mà 'sóng la”. Gió và sóng đang bao quanh 'xung quanh chiếc ghế ngồi'. Một tâm trạng cô đơn đang trải qua những khoảnh khắc kinh hoàng, đáng sợ, lo lắng. Có lẽ âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bao trùm, sắp đổ xuống số phận của người con gái 'nhỏ bé' đáng thương? Kiều 'buồn nhìn' mà lo lắng sợ hãi:
'Buồn nhìn gió cuốn mặt duềnh
Sóng vang ầm quanh chiếc ghế ngồi'.
Bức tranh 'cảnh vật thiên nhiên', gần nhất là lầu Ngưng Bích, xa xôi là chiếc thuyền và cánh buồm xa xa trên biển chiều hôm, là dòng nước và hoa trôi, là cỏ héo úa rầu rĩ giữa màu xanh mịt mù của mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng gầm gừ kêu nơi mặt biển mang ý nghĩa biểu tượng và đầy giá trị nghệ thuật. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của tự nhiên vừa bao la, mờ mịt, vừa dữ dội, như đang bao trùm người con gái lạc lõng đau thương trong nỗi buồn đau khủng khiếp, cô đơn.
Những thử thách đầy nguy hiểm, nhiều cạm bẫy, có 'ma đi dẫn lối, quỷ đưa đường', đối với Kiều đang rộng lớn. Đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' như tràn đầy nước mắt. Nước mắt của người con gái lạc lõng, đau khổ vì cô đơn, buồn thương chua xót vì tình yêu đầu tan vỡ, xót xa vì nhớ cha mẹ, lo lắng cho số phận, tương lai của bản thân. Nước mắt của nhà thơ, một trái tim nhân đạo to lớn đồng cảm, xót thương cho người con gái tài năng, hiền lành nhưng không may mắn.