Đoạn thơ 'Kiều tại lầu Ngưng Bích' có 22 câu được trích trong 'Truyện Kiều' là những 'Câu thơ vẫn ghi lại nỗi đau tình nhân' (Tố Hữu). Nhiều biến cố đau lòng đã xảy ra: người thân bị tai bay vạ gió, cha và em bị bắt giam, tài sản bị bọn 'đầu trâu mặt ngựa' cướp 'hết sạch...,' phải bán thân chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh - Tú Bà. Sau khi bị 'mất trinh' vì Mã Giám Sinh, bị Tú Bà sỉ nhục, Kiều tự tử nhưng được cứu sống. Tú Bà lừa dối Kiều:
'Hãy sống nếu còn sức sống,
Tìm nơi xứng đáng với bậc con nghiệp...'.
Kiều được Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa 'hãy sống thoải mái' nhưng thực sự nàng bị giam cầm. Lầu Ngưng Bích là nơi một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên hành trình lưu lạc đầy nước mắt, đắng cay và nhục nhã suốt 15 năm.
Sáu câu đầu tiên của đoạn thơ tạo ra một không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có 'những nơi xa xôi' và 'bóng trăng gần': có 'cát vàng cồn ấy' và 'bụi hồng dặm đó'. Giữa thiên nhiên hoang sơ và bao la, không có bóng người, Kiều chỉ biết 'bồn bề xa xa trông'. Một cảm giác cô đơn, buồn bã và thất vọng về thân phận, số phận của mình, duyên số của mình. Chỉ có một mình một bóng đối mặt với 'mây sớm đèn khuya,' nỗi lòng của một cô gái lưu lạc đau khổ, bất hạnh và chán chường vô cùng:
'Chán chường mây sớm đèn khuya,
Nửa lòng nửa cảnh như chia tấm lòng'.
Bốn từ 'như chia tấm lòng' miêu tả một nỗi đau, một trái tim tan nát, đau buồn. Vì vậy, mặc dù sống giữa một cảnh đẹp êm đềm, có những nơi xa xôi và trăng gần - nhưng nàng vẫn cảm thấy cô đơn, buồn bã, bởi vì 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kiều làm sao có thể thoát khỏi cô đơn, buồn bã trong một cảnh tượng đầy bi kịch:
'Xung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc vài bốn câu”
Tám câu thơ tiếp theo diễn đạt sự nhớ nhung người yêu và sự đau thương của cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều Tưởng người. Với cha mẹ thì nàng đã “xót lòng..” mỗi đối tượng Kiều có một nỗi nhớ thương riêng.
Khi trở về Lâm Tri cùng Mã Giám Sinh, Kiều nhớ Kim Trọng cô đơn, đau khổ 'Một mình thu đã riêng ai một người'. Đối với cha mẹ, Kiều cảm thấy 'Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn'. Lần này, Kiều nhớ Kim, nhớ lời thề dưới ánh trăng đêm 'dưới ánh trăng cùng chén đồng', nhớ người đợi chờ đau khổ 'đợi mãi ngày đêm' và 'bơ vơ' cô đơn, buồn rầu. Khi nào mới xong xuôi, mới 'phai' được nỗi nhớ ấy? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ khoảng cách thời gian và không gian như: 'dưới ánh trăng cùng chén đồng,' tin sương,' 'đợi mãi ngày đêm,' 'bên bờ trời,' 'tấm son gọt rửa...' đã diễn đạt và phản ánh một cách sâu sắc cảm xúc của tình yêu trong mối tình đầu, nay vì hoàn cảnh mà chia lìa đau buồn:
'Tường người dưới ánh trăng chén đồng
Tin sương những rày đợi mãi ngày đêm.
Bên bờ trời góc biển bơ vơ,
Tấm son gọt rửa bao giờ cho phai”
Các động từ - tính từ: 'tưởng,' 'đợi,' 'đợi,' 'bơ vơ,' 'gọt rửa,' 'phai' đã kết hợp thành một hệ thống ngôn ngữ độc đáo thể hiện tâm trạng nội tâm của nhân vật trữ tình. Kiều không ngừng nhớ người yêu, đau khổ cho tình yêu đã nặng lời thề nhưng vẫn tan vỡ!
Nhớ Kim và sau đó là xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: 'ngày mai,' 'khoảng cách vài nắng mưa,' các điển cố văn học Trung Hoa: 'trước sân,' 'gốc tử' và thành ngữ 'quạt nồng ấp lạnh,' đặc biệt là hình ảnh mẹ già 'tựa cửa ngày mai chờ đợi, nhìn ra đứa con lưu lạc quê nhà đã tột cùng nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được phụng dưỡng cha mẹ khi họ đã già yếu, khi gốc tử đã vừa người ôm'.
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc đáo kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong việc chia ly 'cành gãy gương vỡ' nàng vẫn dành cho 'người yêu chung' bao tình thương nhớ 'nhiều lần ân ái'. Là một đứa con hiếu thảo, giàu lòng hi sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương, càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người từ lâu:
'Xót lòng tựa cửa ngày mai,
Quạt nồng ấp lạnh của ai giờ?
Trước sân cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Tám câu cuối cùng của đoạn thơ, câu điệp ngữ 'buồn chờ' xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu tiên của mỗi cặp lục bát. Mỗi cặp lục bát đều mang một tâm trạng 'buồn chờ'. Cảnh vật ngoại và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và biến cố tâm trạng của nhân vật được miêu tả qua một hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ đậm tính ước lệ, mở ra một tràng liên tưởng bi thương:
'Buồn chờ cửa biển chiều mai
Thuyền nào thấp thoáng buồm xa xa”
Cửa biển vô cùng rộng lớn khi hoàng hôn đến, làm tăng thêm nỗi buồn đau cô đơn của cuộc sống lưu lạc. 'Thuyền nào' đan xen 'thấp thoáng' lúc ẩn lúc hiện, 'buồm xa xa' đầy ẩn dụ. 'Buồn chờ' chiếc thuyền 'nào' xa lạ, 'buồm xa xa' mờ nhạt, Kiều ngẩng đầu suy tư về số phận cô đơn của mình giữa quê hương xa lạ.
Lại nàng ngẩn ngơ nhìn về phía 'ngọn dòng nước mới trôi', theo dõi những cánh hoa trôi trôi và tự hỏi 'đi đâu', đến phương trời xa xăm nào. Những cánh hoa trôi bi kịch ấy trở thành biểu tượng cho số phận bơ vơ trên dòng cuộc sống không biết đi về đâu, đến đâu Kiều nhìn hoa trôi trên dòng nước mà đau lòng cho số phận của mình:
'Buồn nhìn ngọn dòng nước mới trôi.
Hoa trôi bi kịch không biết đi đâu'
Sau hai câu hỏi nhẹ nhàng về 'thuyền nào', về hoa trôi không biết đi đâu . Kiều 'buồn nhìn' về bốn phía 'chân trời mặt đất' về nội đất, nàng chỉ thấy trên mảnh xanh mịt mờ kia là màu sắc phai nhạt, vàng héo 'đắng đắng' của nội đất. Màu sắc nhạt nhòa ấy đã phản ánh nỗi đau nhạt nhòa của người con gái lạc lõng chốn đại dương:
'Buồn nhìn nội đất đắng đắng,
Chân trời mặt đất một màu xanh xanh'.
'Nội cỏ buồn rầu” với sắc màu héo úa xuất hiện giữa bức tranh màu 'xanh xanh' nhạt nhòa của 'chân trời mặt đất', đó là tâm trạng lo lắng của Kiều khi suy nghĩ về tương lai mịt mờ, héo úa của mình, màu cỏ 'buồn rầu' ấy, nàng đã từng nhìn thấy ngày xưa trên mảnh đất Đạm Tiên:
'Sầm sầm nắm đất bên lề đường,
Buồn rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh'.
Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa 'buồn nhìn' vừa lắng nghe tai. Nghe tiếng gió, gió thét, 'gió thổi' trên bề mặt. Nghe tiếng 'gào thét” của sóng, không phải là sóng vui mừng mà 'sóng than'. Gió và sóng vây quanh 'xung quanh ghế ngồi'. Tâm trạng cô đơn đang trải qua những giờ phút đáng sợ, lo lắng, hãi hùng. Có lẽ âm thanh khủng khiếp đó của gió và sóng là dấu hiệu cho những tai ương sắp ập đến với số phận của cô gái 'bé nhỏ' đáng thương? Kiều 'buồn nhìn' và lo lắng:
'Buồn nhìn gió cuốn mặt trời phằng phịt
Ầm ầm tiếng sóng kêu rền quanh ghế ngồi'.
Bức tranh 'nước non người', gần là lầu Ngưng Bích, xa là con thuyền và cánh buồm mờ mịt trên bức tranh của chiều hôm, là dòng nước và hoa trôi, là bãi cỏ buồn rầu giữa bức tranh màu xanh xanh của trời đất, là gió thổi và tiếng sóng ầm ầm vang quanh mặt trời mang ý nghĩa biểu tượng và đẹp mắt. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la , vừa dữ dội, tất cả như đang bao quanh người con gái lạc lõng trong nỗi buồn đau kinh hoàng, cô đơn.
Những thử thách đầy chông gai, nhiều nước mắt và máu, có 'ma cười, quỷ chê', đối với Kiều phía trước. Đoạn thơ 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' đẫm lệ. Lệ của người con gái lạc lõng, đau khổ vì cô đơn. buồn thương chua xót vì tình yêu tan vỡ, xót xa vì nhớ cha mẹ, lo sợ cho số phận. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo đồng cảm, xót thương cho người phụ nữ tài năng, hiếu thảo mà bạc mệnh.