Đào sâu vào bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu: 'Gặp lại nhân dân... bất ngờ đón nhận bàn tay mở rộng'
Phân tích đoạn thơ sau trong bài hát Tiếng hát con tàu: 'Gặp lại nhân dân... bất ngờ nhận thấy cánh tay mở rộng'
Cuộc phiêu lưu của tâm hồn thơ bắt đầu từ 'khu rừng cô đơn' và kết thúc tại 'bờ biển hạnh phúc', trải qua những chặng đường từ 'đỉnh núi đau khổ' đến 'đồng cỏ ngát hương', từ 'bầu trời của một linh hồn' hòa mình vào 'bầu trời của tất cả'. Chế Lan Viên, như một nhà thơ sâu sắc, đồng cảm với vai trò quan trọng của Đảng và Nhân dân, những người mà ông tin rằng đã 'biến đổi cuộc sống và thay đổi bản thơ của tôi'.
Niềm vui hân hoan của một nhà thơ khi nhận ra giá trị thực sự của cuộc sống khi quay về với Nhân dân được diễn đạt một cách chân thành và xúc động qua những câu thơ:
'Gặp lại Nhân dân như nai trở về suối nguồn
Như giêng hai mở rộng, én hòa mình vào mùa
Như đứa trẻ thơ đong đầy lòng nhận được sữa
Chiếc nôi không ngừng hòa mình vào vòng tay ân ái'
(Khúc hát của con tàu - Chế Lan Viên)
Tiếng hát của con tàu là bức tranh thơ diễn đàn từ một diễn biến kinh tế - xã hội: hành trình đoàn kết nhân dân xây dựng khu vực kinh tế mới vào năm 1960. Không chỉ là sự truyền đạt của một lối sống và chính sách Đảng, bài thơ còn là cảm nhận của nhà thơ đối với cuộc sống, với những yêu cầu và đòi hỏi mới đối với nghệ sĩ. Chính từ cuộc sống, nhà thơ thể hiện khát khao quay trở lại với đất nước và nhân dân - nguồn cảm hứng tinh thần cho mọi sáng tạo. Đó là niềm hạnh phúc lớn khi nhà thơ trở về với nhân dân:
'Gặp lại nhân dân như nai quay về nguồn suối quen thuộc
Cùng đón giêng hai, chim én đến với mùa xuân'
Nhớ về Tây Bắc, nhân dân không chỉ là một khái niệm trừu tượng mà là hình ảnh sống động qua những số phận cụ thể. Họ là anh du kích với 'chiếc áo nâu rách từng mảnh. Đêm cuối cùng anh gửi lại cho con', là thằng em liên lạc: 'Mười năm đầy thử thách không có một lá thư', là bà mẹ 'đèn lửa hồng soi tóc bạc. Năm con gặp khó khăn, mẹ thức đêm một mình suốt mùa dài'... Những con người nghèo khó nhưng hi sinh tận trái tim cho Cách mạng, nhà thơ bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất. Từ những cái tôi cụ thể đó, những tình cảm thơ dâng lên cao và sâu:
'Gặp lại nhân dân như nai trở về nguồn suối quen thuộc
Cùng đón giêng hai, chim én đến với mùa xuân
Như đứa trẻ thơ háo hức gặp sữa
Chiếc nôi bất ngờ chìm đắm trong vòng tay ân ái'
Đoạn thơ tạo nên dấu ấn mạnh mẽ ở người đọc bởi cách xưng hô tình cảm như mối liên kết ruột thịt: 'Con gặp lại nhân nhân'. Lối xưng hô giản dị, chân thành và ấm áp tái hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà thơ và nhân dân. Đây là sự nhận thức mới mẻ về hành trình tiến triển từ cái tôi hẹp hòi, nghệ sĩ hòa mình vào cuộc sống đa dạng của nhân dân. Xuân Diệu đã chấp nhận vị trí và mối liên hệ giữa nghệ sĩ và nhân dân:
'Tôi chung sống với nhân dân tôi
Cùng mồ hôi, cùng giọt máu
Tôi sống trong hàng triệu trái tim chiến đấu
Của những người yêu dấu đầy gian lao'
(Những đêm hành trình)
Do đó, lối xưng hô đầy ân tình đó tạo nên cảm xúc sâu sắc trong lòng độc giả không chỉ vì nhà thơ lên tiếng về trái tim của một thế hệ, mà còn vì Chế Lan Viên đã tận hưởng tâm hồn của nhân dân. Có những lúc ông trách móc chính mình vì 'lạc quẻo' với cuộc sống của nhân dân:
Làm thế nào có thể quên đi những khoảnh khắc thơ ấy
Tổ quốc trong tâm hồn, hiện diện như hơi thở
Nhân dân vây quanh ta, hòa mình trong không gian
Thơ trào lưu như dòng sông uốn cong theo quãng đời
(Người thay đổi cuộc đời tôi, Người thay đổi bản thơ tôi)
Trong cảm xúc chân thành đó, nhà thơ diễn đạt ý nghĩa của việc trở về với nhân dân qua lối so sánh đầy ngạc nhiên và sáng tạo. Lối so sánh này đánh bại mọi dự đoán, đưa ta đến những hình ảnh mới lạ. Niềm hạnh phúc trở về với nhân dân bừng nở như những đoá hoa rực rỡ và ấm áp như màu sắc. Lối so sánh phức tạp này là nét đặc trưng của nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên. Trong bốn câu thơ mở đầu, nhà thơ so sánh Lòng ta, Tâm hồn ta với hai hình ảnh: con tàu và miền Tây Bắc. Khi đề cập đến nỗi nhớ và tình yêu trong phần sau của bài thơ, những câu thơ lại khoe sự sáng tạo qua liên tưởng:
Anh bỗng nhớ em như đông về gió se lạnh
Tình yêu ta như cánh bướm vàng nở rộ
Như mùa xuân đến, chim rừng trở lại với bộ lông mới
Tình yêu làm cho quê hương trở nên quen thuộc và ấm áp
Tạo dựng hình tượng thơ qua lối so sánh phức có ý nghĩa to lớn trong việc diễn đạt cảm xúc rộn ràng của nhà thơ và kích thích sự tưởng tượng đa chiều của độc giả.
Các biện pháp so sánh được xây dựng từ những hình ảnh giản dị, quen thuộc, đặc biệt đối với cư dân miền núi: hươu, suối, ngôi nhà cũ, bãi cỏ, chim én, mùa xuân,.. Điều này là sự nỗ lực của nhà thơ khi trên con đường
đường rời bỏ những hình ảnh xa xôi, kỳ bí từ những tập thơ trước Cách mạng để quay về với thế giới giản dị, mang theo hơi thở sống động của nhân dân. Trước đây, độc giả thường gặp những hình ảnh phức tạp, thậm chí là rùng rợn: bóng ma Hời, những con sông hoang vắng lạc lõng trong bóng tối... Nhưng trong bài thơ này, đoạn thơ mở đầu mang đến những hình ảnh tràn ngập vẻ đẹp của cuộc sống hiện thực.
Điều độc đáo trong đoạn thơ là cách sắp xếp các so sánh của nhà thơ. Nó diễn ra theo một dãy tăng dần theo cấp độ. Ba dòng so sánh đầu tiên liên quan đến tự nhiên và thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, hai dòng so sánh còn lại chuyển hướng về con người và những nhu cầu thiết yếu của họ: trẻ thơ đói lòng - gặp sữa; nôi ngừng - cánh tay mở rộng. Sắp xếp này thể hiện sự biết ơn chân thành và sâu sắc của nhà thơ khi được trở về với Nhân dân.
Không chỉ thế, lối so sánh trong khổ thơ còn chứa đựng triết lí sâu sắc: Mỗi sự vật mang ý nghĩa khi được đặt vào mối liên hệ huyết thống với các sự vật khác. Nai và suối cũ - họ là đôi không thể tách rời, trong đó, suối cũ trở thành môi trường sống cho loài nai. Tháng Giêng, tháng Hai là thời kỳ khởi đầu của một năm, thời điểm tốt nhất cho sự phát triển của cây cỏ, hoa lá. Mùa xuân và đàn chim én; trẻ thơ và nhu cầu gặp sữa... là những hình ảnh luôn được đặt trong mối liên hệ tương tác. Nhà thơ mượn những hình ảnh từ cuộc sống tự nhiên và xã hội, áp dụng những quy luật đó để nói về một mối quan hệ to lớn hơn: nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi phản ánh cuộc sống. Cuộc sống là điểm xuất phát và đích đến cuối cùng của mọi tác phẩm văn học. Nếu mất mát cuộc sống, thơ sẽ khô héo trên trang giấy. Tuy nhiên, để phản ánh cuộc sống, người nghệ sĩ phải liên kết cuộc đời với nhân dân, đồng điệu với hàng triệu trái tim của nhân dân. Có lẽ, không nhà thơ nào diễn đạt chân lý của quá trình sáng tạo và sự sâu sắc như Chế Lan Viên.
Đây là một trong những đoạn thơ xuất sắc trong bài, với hình ảnh mới lạ, so sánh giản dị nhưng sâu sắc. Chế Lan Viên đã dẫn độc giả đến một quy luật tự nhiên quay trở lại với nhân dân là hướng đi tất yếu. Điều này phản ánh quy luật của tự nhiên cũng như phù hợp với đạo lý, tình cảm con người. Chỉ có con đường này mới mở ra những cánh cửa lớn cho người nghệ sĩ. Trên con đường này, Chế Lan Viên đã thực sự thành công, trở thành tiếng thơ hùng vĩ, tiếng kèn hùng trận trong những năm chống Mỹ.
""""-HẾT""""
Bên cạnh bài Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu: 'Con gặp lại nhân dân... bỗng gặp cánh tay đưa', để học tốt, các em không nên bỏ qua những bài văn mẫu đặc sắc khác như: Bình giảng khổ thơ sau đây trong bài thơ Tiếng hát con tàu: 'Con gặp lại nhân dân... gặp cánh tay đưa', Cảm nhận về 4 câu đề từ trong bài Tiếng hát con tàu, Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu: 'Nhớ bản sương giăng... đất lạ hóa quê hương', Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu: 'Nhớ bản sương giăng... đất đã hóa tâm hồn'.