Nỗi nhớ quê hương, tình yêu với đất nước được thể hiện sâu sắc qua các hình ảnh, màu sắc, âm thanh mà nhà thơ đã khéo léo sử dụng, dẫn dắt người đọc nhìn thấy bóng dáng quê hương đầy ắp nỗi nhớ, tình thương và sự day dứt không nguôi.
“Không gì sâu bằng những nỗi nhớ da diết vào mỗi buổi trưa
Vắng lặng bên trong tiếng hò ai oán!
Phương nào gió thổi mùi đất thơm
Phương nào hàng tre mát rượi, an lành
Phương nào mạ xanh rì rào, mơn mởn
Phương nào khoai ngọt, sắn bùi trên nương?
Phương nào con đường đã đi muôn thuở
Làng nhỏ, mái tranh lặng thầm nằm yên
Trong vòng tay tháng năm u ám
Dòng thời gian không đổi, vẫn mãi trôi...
Phần 'Xiềng xích' trong tập thơ 'Từ ấy' bao gồm 29 tác phẩm. Trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1939, Tố Hữu đã sáng tác 9 bài thơ. 'Nhớ đồng' là bài thứ 7, được viết vào tháng 7 năm 1939, phản ánh cảm xúc nhớ quê hương trong nhà tù. Bài thơ gồm 44 câu, chia thành bốn phần nhớ: 10 câu đầu nhớ về đồng quê, 10 câu tiếp theo nhớ người dân cày, 10 câu sau về mẹ già và những người thân từ xưa, 14 câu cuối thể hiện nỗi nhớ bản thân và khát vọng tự do.
Bài thơ được cấu trúc theo phong cách phức điệu, với điệp khúc xuất hiện ở đoạn 1 và 3.
“Có gì sâu bằng nỗi nhớ mỗi trưa vắng
Lặng lẽ giữa tiếng hò ai thấp thoáng!
Điệp khúc đó được thay đổi thành:
“Có gì sâu bằng những trưa vắng lặng,
Tiếng ru của đồng quê nhớ da diết!'
được đặt tại đầu của đoạn 2 và cuối của đoạn 4.
Cấu trúc “phức điệu” này thật đặc biệt, tạo nên những vòng lặp sâu lắng về nỗi nhớ quê hương trong trái tim người chiến sĩ trẻ đang gánh chịu những ngày tháng tù đày. Đây là phần mở đầu của bài thơ 'Nhớ đồng'
“Có gì sâu bằng những trưa thương nhớ
…………………………..
Dù không đổi nhưng vẫn trôi mãi'.
Kể từ khi bị mật thám bắt giam, sống trong cảnh 'tù túng bốn bề tường vôi', nỗi nhớ quê nhà không ngừng quay cuồng, đặc biệt vào những buổi trưa tại nhà tù. Nỗi nhớ ấy không nguôi, dày vò và sâu đậm tới mức từ sâu thẳm lòng người bùng lên câu so sánh: 'Gì sâu bằng những trưa thương nhớ'. Trong nhà tù, cảnh trong lẫn ngoài song sắt đều 'hiu quạnh', lặng lẽ và buồn bã. 'Hiu quạnh' không chỉ là cảnh vật xung quanh mà còn là tâm trạng của 'thân phận tù đày'. Trong giây phút tĩnh lặng ấy, nhà thơ nhớ đến 'một tiếng hò' từ quê hương, xao xuyến cả tâm can:
'Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”
Nhớ về một tiếng hò, một bài dân ca, những giọng hò 'Mái nhì', 'Mái đẩy', hay tiếng hò 'đĩa gạo' đầy quê hương mà nhà thơ đã khắc khoải trong lòng:
'Âm vang trong tiếng xe cày qua nước,
Tiếng hò xao xuyến triền miên nơi trí nhớ.
(đoạn 2)
'Một tiếng hò” chính là linh hồn của quê hương. Nhớ về 'một giọng hò' là nhớ về cánh đồng, nhớ về quê hương, nơi “nghĩa nặng tình sâu” đã xa cách bao lâu nay. Bốn câu thơ tiếp theo, từ 'đâu' được lặp đi lặp lại, và những câu hỏi tu từ liên tiếp, bộc lộ nỗi 'nhớ đồng' không thể nguôi ngoai:
''Đâu nhớ cồn cát thơm mùi đất,
Đâu hàng tre xanh mát dịu dàng'
Đâu từng khóm lúa xanh rờn rợn
Đâu nương khoai sắn bùi ngọt?
Thơ tái hiện không gian đồng quê như bức tranh, nơi tâm trạng nhớ quê hương trỗi dậy mãnh liệt. Nhớ mùi thơm từ đất, nhớ luống cày, nhớ hương lúa mới. Nhớ bóng mát tre xanh với “tiếng thở” rì rào trong gió, như điệu nhạc yên bình của làng quê bao đời. Sự nhớ ấy là nhớ về những khóm mạ xanh mơn mởn, về vị ngọt của khoai, vị bùi của sắn. Các từ ngữ như 'thơm', 'mát', 'yên vui', 'xanh tươi', 'ngọt', 'bùi' đã làm nổi bật vẻ đẹp giản dị mà đẹp đẽ của quê hương. Bức tranh quê, dù chỉ còn trong ký ức, vẫn hiện lên quen thuộc, bình dị và đầy sức sống trong nỗi nhớ của người tù đầy xa xứ.
Trong hơn một nghìn ngày tù đày (1939 - 1942), Tố Hữu chịu đựng biết bao nỗi nhớ quê nhà không nguôi. Tiếng chim tu hú gọi bạn vang lên mà nhớ 'Vườn râm báo hiệu tiếng ve gọi hè - Bắp rây vàng rực sân chiều nắng tắt' (Khi con tu hú). Một mảnh đồng xanh, một khúc ca cô đơn, một tia nắng chiều le lói trên nương đưa tâm hồn trở về với những kỷ niệm yêu dấu, đau đáu nhớ nhà.
'Đồng xanh gợi nhớ quê hương
Tiếng hát cô đơn giữa nương chiều tà.
(bài hát khi đi cày).
'Nhớ đồng' là không thể quên 'Những tâm hồn hiền lành như đất - Tình quê khoai sắn chất phác, đôn hậu.' 'Nhớ đồng' còn là nhớ mẹ già yêu thương:
'Chao ôi, bao nỗi nhớ thương, nhớ thương
Mẹ già ơi, xa cách một mình quạnh hiu!'
Tiếng thơ vang lên, bồn chồn và đầy xúc động. Nhớ đồng, nhớ quê, nhớ mẹ già... những hình ảnh đẹp đẽ và tinh tế trong thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ sau đây khắc họa nỗi nhớ cuộc sống khốn khó, ẩn mình sau hàng tre xanh mát:
'Đâu con đường mòn mà bao đời qua
Làng nhà tranh thấp, yên bình tựa giấc ngủ
Trong dòng ngày tháng tối tăm ấy
Không thay đổi, nhưng vẫn mãi trôi đi...
Không gian và tâm trạng thơ về nỗi 'nhớ đồng' được mở rộng, làm sâu sắc thêm với 'những trưa thương nhớ...', 'những trưa hiu quạnh...' Tiếng thơ đưa ra câu hỏi: 'Đâu những con đường xưa bao đời?'. Ngày tháng xa cách khiến hình bóng quê hương dần mờ nhạt. Đâu rồi những con đường gập ghềnh của những kiếp người lam lũ, của mẹ ta, chị ta với 'Đòn gánh tre chín dạn hai vai' (Nguyễn Du),..? Đâu rồi hình ảnh quen thuộc, yêu dấu: 'Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi'. Một câu thơ với hình ảnh sáng tạo và gợi cảm, sử dụng từ 'thấp' và nhân hóa '...ngủ im hơi' mô tả cảnh quê Việt Nam đầy tăm tối, nghèo khó, xơ xác dưới thời Pháp thuộc.
Với Tố Hữu, nỗi nhớ luôn gắn với lòng yêu thương, thương quê hương, thương đồng chí, thương những người dân lao động khốn khó đang oằn mình dưới ách đô hộ của ngoại bang, 'Đọa đày trong những hố sâu không đáy' (Tâm tư trong tù). Cuộc sống của nhân dân ta thuở ấy âm thầm trôi qua trong bóng tối 'âm u'. Đó là 'Ao đời' đọng lại như lời Xuân Diệu trong 'Tỏa nhị Kiều”. Đời 'không đổi', thân phận 'không đổi', nhưng 'trôi cứ trôi'. Ba từ 'trôi cứ trôi' thấm thía nỗi buồn, câu thơ không chỉ biểu đạt nỗi buồn 'nhớ đồng' sâu sắc mà còn mang ý nghĩa thức tỉnh về nô lệ và khát vọng tự do.
Trong dòng ngày tháng tối tăm đó,
Không thay đổi, nhưng luôn luôn trôi đi.
Cụm từ 'trôi cứ trôi' kết hợp với ẩn dụ 'dòng ngày tháng âm u' mang lại một sắc thái biểu cảm phong phú trong văn chương, phản ánh sự vô nghĩa và nỗi buồn của những kiếp người bị mất tự do.
Tố Hữu từng nói: 'Thơ là một điệu hồn tìm kiếm những hồn đồng điệu', vì vậy 'Thơ là chuyện của những tri âm, tri kỉ' trong cuộc sống. Đọc thơ Tố Hữu, nhất là các bài như 'Tâm tư trong tù', 'Nhớ đồng', 'Tiếng hát đi đày'..., chúng ta cảm nhận và đồng cảm sâu sắc với 'điệu hồn' của nhà thơ.
Đoạn thơ này gói gọn nét đẹp hồn thơ Tố Hữu. Nỗi nhớ đồng và tình yêu quê hương nồng nàn đã làm cháy bỏng tâm hồn người chiến sĩ trong bao năm tháng giam cầm. Các đường nét, màu sắc, âm thanh mà nhà thơ tài tình sử dụng đã làm bóng hình quê hương hiện lên mơ hồ, đầy nỗi nhớ, tình thương và nỗi buồn không dứt. Với giọng điệu bồi hồi, xao xuyến, tác giả thể hiện sâu sắc nỗi buồn, khao khát về một cái đẹp và tự do trong cảm xúc của mình.
'...Tôi mộng mơ qua cánh cửa tù bao ngày
Tôi gom góp mọi điều trong yên lặng
Như chim lẻ loi thương nhớ cơn gió mây.
(Nhớ về quê hương)