1. Mẫu văn số 1
2. Mẫu văn số 2
3. Mẫu văn số 3
4. Mẫu văn số 4
5. Mẫu văn số 5
6. Mẫu văn số 6
7. Mẫu văn số 7
Đề bài: Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Tổng hợp 7 mẫu văn Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
1. Mẫu văn số 1: Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Thơ của Tố Hữu là lời nói của cả một cộng đồng, của tâm hồn những người hiến dâng cho sự nghiệp cách mạng, cho quê hương, cho đất nước. Trong những bài thơ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được những tình cảm mặn nồng, trữ tình, nảy sinh từ trái tim chung tình với dân tộc và nhân dân, và đặc biệt là bài thơ Việt Bắc - một tuyệt phẩm của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên thật là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi đây là nguồn cảm hứng của văn hóa dân gian. Tố Hữu, nhà thơ lớn, là pioneeer của thơ ca cách mạng Việt Nam, sáng tạo ra những bài thơ chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ kết hợp tính chính trị với trữ tình sâu sắc, hướng tới những giá trị lớn, niềm vui to lớn, và cái tôi chung trong thơ của ông luôn đặt lên hàng đầu, mang đẳng cấp của Đảng, cộng đồng dân tộc, những bài thơ đó không chỉ giàu ý nghĩa mà còn là biểu tượng của văn hóa dân tộc.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ giành chiến thắng, gây sóng gió toàn cầu, mở ra một trang sử mới, một thời kỳ mới cho Việt Nam. Sau hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, Pháp rút quân. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị, đưa toàn bộ cơ quan Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về thủ đô. Các chiến sĩ cách mạng chia tay miền rừng bạt ngàn để trở về, bước vào giai đoạn mới của cách mạng, và Việt Bắc ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt đó. Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ thể hiện tình cảm của người ở lại dành cho những người ra đi.
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả sử dụng cặp từ “mình-ta” để nói về đối thoại giữa những người cách mạng với nhân dân Việt Bắc. Cách diễn đạt này không chỉ thể hiện tình yêu, gắn bó mạnh mẽ giữa họ trong những năm chiến đấu chống Pháp, mà còn thể hiện sự gắn bó trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” thể hiện mối liên kết không chỉ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà còn từ kháng chiến chống Nhật, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Khoảng thời gian đóng góp cho sự gắn bó sắt son, mặn nồng giữa người cách mạng và nhân dân Việt Bắc, biến cảm xúc thành kỷ niệm không thể quên. “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” thể hiện nỗi nhớ lan tỏa khắp núi rừng, yêu thương, gắn bó, và sống với trái tim chân tình biết mấy để có những cảm xúc thiết tha đến vậy?
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Từ từ chuyển phiếm “ai”, gợi nhiều cảm xúc, “ai” có thể là người ra đi, cũng có thể là người ở lại. Từ láy “tha thiết” lấy lại từ “thiết tha” khắc họa rõ ràng tình cảm của người ra đi và người ở lại. “Bâng khuâng” và “bồn chồn” chất chứa nhiều tâm tình, niềm vui toàn thắng, về lại quê hương, đoàn tụ gia đình; cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, chia tay mảnh đất thấm máu nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân li”, hình ảnh chiếc áo cổ điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt Bắc, màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người dân và núi rừng Tây Bắc, đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 tạo khoảnh lặng giữa lúc phân li, nhìn nhau nghẹn lòng, để cảm xúc phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ tinh tế đặt dấu phẩy, giây phút, khoảnh khắc ngưng đọng, kỷ niệm ùa về. Kỷ niệm ngự trị trong “những ngày”, không gian “chiến khu”. Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”, “miếng cơm chấm muối”, ẩn dụ khó khăn của người làm cách mạng núi rừng Việt Bắc, là những ký ức gắn bó, keo sơn. “Rừng núi nhớ ai” nhân hóa hình ảnh núi rừng nỗi nhớ dạt dào, sâu thẳm từ phiếm chỉ “ai”. “Trái bùi để rụng”, “măng mai để già” thể hiện nỗi buồn khi người cách mạng về xuôi, để lại núi rừng chênh vênh, lạ lẫm khi nhịp sống thay đổi từ đông vui đến vắng vẻ.
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Nỗi nhớ thêm phần rõ ràng với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định chân lý rằng càng khó khăn, thì tình nghĩa quân dân càng thêm đoàn kết, sắt son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới quen, từ những năm kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định sự gắn bó thiết tha. Những địa danh quen thuộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm hào hùng, sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng với người dân Tây Bắc.
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Lối đối đắp “mình-ta” tiếp tục, kết cấu “Ta với mình, mình với ta” tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” thể hiện tình cảm thủy chung son sắt mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc như lời thề trong tình yêu. Biện pháp so sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...”, thể hiện một điều thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của con người Việt Bắc không bao giờ vơi cạn như tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái. Nhà thơ so sánh nỗi nhớ giống như nỗi nhớ người yêu, trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình quân dân để trở nên tha thiết hơn. Vì lẽ đó, nỗi nhớ trong tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất. Từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với môt không gian thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và hai tiếng vơi đầy khép lại đoạn thơ thì đây không chỉ là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ nhàng những cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ “cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu thương. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua đi cái lạnh cắt da cắt thịt ở mảnh đất Việt Bắc.
Con người tỏa sáng trong đám mây lao động, hùng vĩ và tuyệt vời, họ như chiếm lĩnh đỉnh cao, bức tranh tinh tế hòa mình trong ánh sáng nhiếp ảnh. Mùa xuân hiện lên với hình ảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng lãng mạn, tạo nên bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh. Con người trong tư thế lao động “chuốt từng sợi giang”, thể hiện sự chăm chỉ, kiên trì và tinh tế, vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Mùa hạ đến với âm thanh của tiếng ve rộn ràng, âm nhạc của núi rừng và màu vàng rực rỡ của rừng phách. Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thật tuyệt vời và mơ mộng. Bức tranh kết thúc với mùa thu, mùa thu an lành, mùa thu của chiến thắng tháng tám năm 1954, tất cả được tượng trưng trong vầng trăng tuyệt vời. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh về cảnh đẹp và con người Việt Bắc, vừa làm kết thúc cho khúc tình ca hùng tráng về cuộc kháng chiến.
Trong nỗi nhớ của người rời bỏ và những người ở lại, hình ảnh khó quên về những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến hiện về, đó là lúc “Giặc đến giặc lùng”, từ ngữ “lùng” thể hiện sự nguy hiểm của đối phương. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng” là biểu tượng cho sự gắn bó sâu sắc giữa thiên nhiên và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên trở thành một sinh thể có linh hồn, bảo vệ cho bộ đội, bao bọc quân thù. Hình ảnh “Núi giăng thành lũy sắt dày” kết hợp với cấu trúc lặp lại “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” thể hiện sức mạnh, tạo cảm giác không thể phá hủy. Sử dụng từ “nhớ” kết hợp với “nhớ từ”, “nhớ sang”, đặc biệt là những địa danh quen thuộc với những chiến công, tạo nên cảm xúc về nỗi nhớ lan tỏa khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh sống động và biện pháp nghệ thuật sáng tạo đã thể hiện sức mạnh của dân tộc và niềm biết ơn sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc.
“Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Mỗi đêm rung lên như đất đang sống
Quân điệu điệu đều đều trên đường
Ánh sao phát sáng trên mũ nan quân đội
Công nhân đỏ đuốc từng đội
Bước chân vẫn kiên trì trên con đường đá nát.
Nghìn đêm đen dày sương mờ
Đèn pha chiếu rọi như ban mai sáng lên
Tin vui chiến thắng vang khắp nơi
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên hạnh phúc
Hạnh phúc từ Ðồng Tháp, An Khê
Hạnh phúc tràn đến Việt Bắc, qua đèo De, qua núi Hồng.”
Câu thơ “Những con đường Việt Bắc của chúng ta” thể hiện sự kết nối mạnh mẽ của Việt Bắc, chiến khu của chúng ta với nhân dân và đất nước, quê hương cách mạng và trái tim của cả nước trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Sử dụng biện pháp so sánh “như đất đang sống” kết hợp với hình ảnh “quân điệu điệu đều đều” thể hiện sức mạnh và tình thần kiên trì của đội quân dài hẹn vô tận. Điềp từ “nhớ” phối hợp với những từ ngữ “nhớ từ”, “nhớ sang”, đặc biệt là những địa danh gắn liền với những chiến công, tạo nên một không khí hùng tráng và đầy cảm xúc về nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh sống động cùng với biện pháp nghệ thuật tư duy đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của dân tộc và đồng thời bộc lộ tình cảm biết ơn sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc.
Câu thơ “Dưới ánh sao đầu súng, chiến sĩ cùng mũ nan” kết hợp ba kỹ thuật nghệ thuật tu từ, nhân hóa và hình tượng ánh sáng, đưa người đọc đến với hình ảnh trăng treo trên đầu súng, thơ Chính Hữu và “súng ngửi trời” của Quang Dũng, tôn vinh tầm cao của chiến sĩ, tạo nên hình ảnh đẹp và thơ mộng. Hình ảnh đoàn dân công đầy sức mạnh, đông đúc “đỏ đuốc từng đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhớ thành ngữ “Chân cứng đá mềm”, khẳng định sức mạnh và sự kiên cường, bền bỉ của con người Việt Nam trước gian nan chiến tranh. Trong bóng tối chiến tranh, quân và dân luôn hướng về tương lai, trân trọng niềm tin vững chắc vào một ngày mai chiến thắng. Cuối cùng, niềm vui lan tỏa trên khắp đất nước, những chiến sĩ trở về Hà Nội, về miền xuôi, mang theo những kỷ niệm, những yêu thương, niềm hạnh phúc toàn thắng trong những ngày kháng chiến.
“Ai về, liệu có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ nồng gió lay cửa hang.
Bình minh rực rỡ ánh vàng
Trung ương, Chính phủ thảo luận về công việc
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn huy động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền núi, mở rộng các khu...
Ở đâu bóng tối đe dọa
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ ban mai rạng
Ở đâu nỗi đau như chảy máu
Nhớ về Việt Bắc, niềm tin không phai.
Mười lăm năm ấy không quên
Quê hương cách mạng, Cộng hoà xây dựng
Mình về, lòng lại trỗi niềm nhớ
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”
Những câu thơ cuối cùng mở ra bức tranh của Việt Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nơi mà mọi người hân hoan dưới bức trời vàng, trong cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ quay về thủ đô, trong không khí sôi động, miền Bắc đang trải qua sự đổi mới với chính sách mới “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền núi, mở rộng các khu...”. Đồng thời, đoạn thơ là lời ca ngợi công lao to lớn của Bác Hồ, là sự biết ơn sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc, dù giờ đã quay về thủ đô nhưng trong tim những chiến sĩ cách mạng vẫn có một góc nhỏ dành cho Việt Bắc, cho “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”.
Việt Bắc là khúc hát thủy chung và hùng biện của người lính trong chiến trường và chiến khu. Đây cũng là bài ca anh hùng về thời kỳ kháng chiến, với những đau khổ nhưng cũng tràn ngập oanh liệt, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
""""---KẾT THÚC PHẦN 1"""""
Trong chương trình học Văn lớp 12, bài Việt Bắc - Tố Hữu đóng vai trò quan trọng và đầy thách thức. Hãy sáng tạo trong việc Soạn bài Việt Bắc để thu hút sự chú ý của học sinh.
Bí quyết Phương pháp phân tích bài thơ, đoạn thơ để đạt điểm cao
3. Bài mẫu số 2: Phân tích đoạn trích từ bài thơ Việt Bắc
Tố Hữu, bậc thầy của ngôn ngữ cách mạng, sử dụng bút vàng để gửi đi những thông điệp vượt thời gian. Những bài thơ của ông không chỉ là binh khí góp phần khích lệ tinh thần chiến đấu, mà còn là biểu tượng của tình yêu quê hương và lòng yêu nước mãnh liệt. Dù chủ đề chính trị luôn hiện diện, nhưng từng đồng từ của ông đều ngập tràn tình cảm. Bài thơ 'Việt Bắc' được sáng tác sau thắng lợi lịch sử, là bức tranh tuyệt vời về tình đoàn kết, lòng biết ơn và sự đậm sâu trong cuộc chiến tranh. Thể thơ đối đáp tạo nên bức tranh giản dị, ấm áp và quen thuộc đến lạ thường.
Thể thơ lục bát của bài Việt Bắc tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng và lưu lại ấn tượng sâu sắc trong trái tim người đọc. Điều này là minh chứng cho sự khéo léo, làm nổi bật thành công của ông trong việc kết hợp chính trị và tình cảm nhân văn trong thơ ca.
Tác giả khai mạc bằng những lời tiếc nuối, luyến tiếc và sự chấp nhận của những người ở lại và những người ra đi, trong một bức tranh đầy kỷ niệm:
Về lại nơi xưa, lòng nhớ thắm thiết
Năm tháng trôi qua đậm đà tình khắc
Quay về, liệu có nhớ mãi không?
Nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn
Những đoạn thơ là biểu tượng cho trái tim người ở lại, ký ức và lòng tiếc nuối khi chia tay những chiến sỹ cách mạng, những người đã dành nhiều năm để đồng lòng với họ. Tác giả sử dụng những từ ngữ như 'ta' và 'mình' để thể hiện mối liên kết mạnh mẽ, sắc sảo và trung thành. Đặc biệt, ông chỉ ra thời kỳ cụ thể là 'mười lăm năm ấy' - khoảng thời gian dài liên quan đến cuộc chiến tranh khốc liệt giữa nhân dân và thực dân Pháp. Đó cũng là thời kỳ tình đồng đội và tình dân thiết tha, nặng trĩu. Cảm xúc của người ra đi và người ở lại tràn ngập kỷ niệm, mọi nơi đều hiện hữu hình ảnh của quá khứ, nguyên vẹn và trong trẻo. Tố Hữu như đã truyền tải một cảm giác quyến luyến lạ lùng vào tâm trí người đọc.
Tình cảm quyến luyến, lòng bồn chồn của người ở lại khiến người ra đi không thể tránh khỏi những lo lắng và do dự trước việc phải rời bỏ:
Tiếng kêu ai rơi bên sông
Dấu chân buồn chán dặm bước lẻ loi
Chiếc áo chàm nối mối đường biệt ly
Nắm tay nhau, lời nói chẳng nên lời
Lời tâm sự của người ở lại làm người ra đi không thể chịu đựng được sự buồn bã, lẻ loi. Những lời nói đó làm trào dâng lên những kí ức và những tháng ngày khó quên. Tâm trạng ấy được gói gọn trong từ 'bồn chồn', như một trạng thái bồi đắp, không muốn bước tiếp. Điều này thật khó để hiểu rõ cảm xúc của họ. Lúc này, cả người ra đi và người ở lại đều không thể giải thích tại sao lại như vậy. Có lẽ tình yêu lớn lao và những ký ức đã quá đủ để họ có thể bước đi. 15 năm chặt chẽ với miền đất này, đồng đội và đồng bào đã trải qua nhiều cảm xúc, chia sẻ mỗi bữa cơm, mỗi giấc ngủ. Những năm tháng khó khăn ấy không thể chia sẻ hết trong vài câu như thế này, nhưng những từ ngữ đã làm tràn đầy cảm xúc, không thể ngừng nhớ và mong đợi. Người ra đi đã trả lại tình cảm của người ở lại:
Chúng ta, tôi và bạn, lòng tôi trước sau đầy xúc động
« Chúng ta » và « tôi » hòa quyện, không thể tách rời. Người viết khẳng định một cách mạnh mẽ rằng mối liên kết này là 'mặn mà đinh ninh'. Cụm từ 'đinh ninh' như một cây đinh châm chặt vào tâm hồn độc giả, làm nổi bật tấm lòng kiên cường và trung thành. Đây là tình cảm thiêng liêng và cao quý.
Khi nhớ về vùng núi rừng Việt Bắc, tác giả hồi tưởng về thiên nhiên và con người tại đây. Mọi thứ hiện lên sống động, đầy ý nghĩa và trọn vẹn. Chỉ vài nét vẽ, bức tranh về thiên nhiên và con người nơi này hiện ra trước mắt với vẻ đẹp tuyệt vời nhất:
Chúng ta trở về, lòng tôi chất chứa những kỷ niệm
Chúng ta về, tôi nhớ những bông hoa cùng bạn
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, ánh nắng mặt trời găm vào đỉnh núi
Mùa xuân, mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi mây trắng
Ve kêu, rừng hòa mình vào âm nhạc tự nhiên
Nhớ cô em gái, hái măng một mình
Mùa thu rừng, trăng sáng bình yên
Nhớ cô em gái, hái măng một mình
Một bức tranh tuyệt vời, hùng vĩ và tươi sáng của núi rừng Việt Bắc. Không chỉ là hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, mà còn là sự hiện diện chân thực, tình cảm và ý nghĩa sâu sắc của con người. Có thể nói, đây là đoạn thơ tinh tế, đẹp nhất, đầy trữ tình trong bài thơ Việt Bắc, mang lại nguồn cảm hứng lớn và tâm hồn lạc quan.
Nhắc lại với từ 'Diệp từ nhớ', cả bài thơ rộng lớn, khiến cho cảm xúc của tác giả dường như tràn ngập và phun trào mạnh mẽ.
Tác giả không chỉ nhớ đến vẻ đẹp của Việt Bắc, mà còn ghi chép về những cuộc chiến tranh đau thương:
Nhớ đến kỷ niệm đầy xanh, đối mặt với kẻ thù xâm lược
Rừng cây, núi đá, dũng mãnh đánh giặc tây
Núi vững, thành lũy sắt dày
Rừng là mảng che chở quân và bộ đội vươn lên vây bắt đối phương
Không còn giai điệu thư thái của thể lục bát, giờ đây nó đã chuyển sang âm hưởng hào hùng, vang dội khi kể về những trận chiến giữa núi rừng Việt Bắc. Những dòng thơ này làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về sức mạnh và sự kiên cường của Đông Á, nổi bật trong tâm hồn của tác giả. Những năm tháng đau thương đó vẫn còn sống mãi trong trái tim quân và dân.
Bài thơ « Việt Bắc » của Tố Hữu với giọng điệu quyết liệt, da diết và hùng vĩ, đậm chất chiến sĩ, đã đề cập đến tình cảm thân quân và lòng yêu nước mãnh mẽ của nhân dân. Phân tích bài thơ Việt Bắc chúng ta không khỏi ngưỡng mộ và trọng pháo sự tài năng của Tố Hữu.
Đoạn trích ngắn gọn từ Việt Bắc được phân tích một cách dễ hiểu và súc tích.
3. Bài mẫu số 3: Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Sau chiến thắng huy hoàng tại Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp định Geneva về Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được giải phóng, mở đầu cho một chương mới của lịch sử quốc gia và một giai đoạn mới của cách mạng.
Tháng 10-1954, các tổ chức Trung ương của Đảng và Chính phủ rời khỏi khu vực chiến sự ở Việt Bắc và trở về Hà Nội. Nhân dịp sự kiện lịch sử quan trọng đó, nhà thơ Tố Hữu sáng tác bài thơ 'Việt Bắc'. Đây là một tác phẩm dài, 152 câu thơ viết theo thể lục bát. Phần lớn của bài thơ tái hiện giai đoạn khó khăn, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở khu vực Việt Bắc, nay trở thành những ký ức sâu sắc trong lòng người. Phần sau tác giả miêu tả mối liên kết chặt chẽ giữa miền ngược và miền xuôi trong một tương lai hòa bình, tươi sáng cho đất nước, và kết thúc bằng lời ca ngợi công lao của Bác Hồ và Đảng đối với nhân dân. Có những ý kiến cho rằng: 'Việt Bắc' là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và đồng thời là một tác phẩm xuất sắc trong văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Đoạn thơ trích từ sách giáo khoa, xuất phát từ đầu bài thơ Việt Bắc:
Mình về mình nhớ quãng thời gian đó
Mười lăm năm, sự hiếu kỳ đầy ắp
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?
Bằng hình thức câu hỏi đáp, nhà thơ gợi nhớ đến hình thức quen thuộc của ca dao: Mình đi có nhớ ta không? Ta về ta nhớ hàm răng mình cười... Tuy nhiên, trong bối cảnh này, nhà thơ dường như chỉ mượn hình thức của ca dao, còn nội dung đã được đổi mới từ tình cảm giao duyên sang góc nhìn mới: sự nhấn mạnh vào ý thức về cội nguồn. Trước hết, là sự nhắc nhở về cội nguồn - cái cội nguồn của những năm kháng chiến gian khổ: Áo chàm đưa buổi chia ly, Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... Lưu luyến trước thời điểm chia xa đầy cảm xúc, cảm giác đau đớn đến tận đáng kinh ngạc! Điều đó không phải là ngẫu nhiên, càng không phải là vô lý. Trong khoảnh khắc thiêng liêng đó, tất cả ký ức tràn về gây ấn tượng mạnh mẽ - đặc biệt là những ký ức gắn bó chặt chẽ: Mình đi có nhớ những ngày. Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù... Tất cả, từ thiên nhiên đến con người Việt Bắc, đều đứng lặng trước sự kiện đặc biệt. Trong đoạn thơ 14 câu xen kẽ 'mình đi' - 'mình về', tác giả tạo ra một cấu trúc đặc biệt: mỗi câu lục 'mình đi' tương ứng với câu lục tiếp theo 'mình về', và ở tất cả các câu bát, có sự cân đối về hình ảnh và nhịp thơ, tạo nên sự hài hòa:
- Mưa nguồn suối lũ // những mây cùng mù
- Miếng cơm chấm muối // mối thù nặng vai
- Trám bùi để rụng // măng mai để già
- Hắt hiu Um xám // đậm đà lòng son
- Nhớ khi kháng Nhật // thuở còn Việt Minh
Các câu lục 'đi' - 'về' xen kẽ, còn các câu bát được phân bố đều thành hai vế, ngăn cách bằng dấu phảy (,)... tạo ra sự cân bằng và nhịp nhàng, giống như trên đôi vai, trong lý tưởng của một chủ thể. Câu thơ Mình đi, mình có nhớ mình là một hòa hợp hoàn hảo của hình ảnh ta - mình.
Văn bản mẫu Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Trong phần thơ tiếp theo:
Ta và mình, mình và ta,
Lòng ta trước sau đậm nồng đinh ninh...,
Quy trình đảo ngược nhịp (3/3) và từ ngữ, những người mình - ta trở nên gắn bó hơn, làm cho ký ức lan tỏa mạnh mẽ. Nỗi nhớ ở đây (nỗi nhớ giữa người về và người ở lại) được so sánh với ký ức của người yêu - một tình cảm cao quý và lấp lánh nhất của con người, gắn liền với từng khung cảnh và hoạt động hàng ngày: Mỗi lên đỉnh núi, ánh nắng chiều bóng nương, khói bản hòa cùng sương, bếp lửa sớm khuya và được lặp lại: Nhớ từng... như mỗi khi tăng lên, cụ thể. Khi nhắc đến nỗi nhớ, gắn liền với sự kiện, con người cụ thể nhưng ý nghĩa nhớ không hoàn toàn giống nhau. Nỗi nhớ về đồng đội, nỗi nhớ về lớp học, cơ quan, và nỗi nhớ về sinh hoạt đặc trưng miền núi: Nhớ tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối đều đều suối xa... Âm thanh mõ trâu, tiếng chày giã gạo ở nơi đồng bằng dường như vẫn vọng, vẫn thấm đẫm trong hình tưởng về Việt Bắc. Và chưa hết! Nỗi nhớ còn làm cho những hoa cùng người, rừng xanh hoa chuối, ánh đỏ lưng cao, ánh sáng mặt trời châm vào đai lưng... như một bức tranh tuyệt vời, vượt lên trên mức đơn thuần miêu tả, mang lại sự xuất sắc trong việc sắp xếp màu sắc của rừng xanh (màu nền) và hoa chuối đỏ tươi - đặc biệt là sự phản chiếu rực rỡ từ đỉnh đèo xa. Bức tranh về thiên nhiên - con người ở đây trở nên sống động, huyền bí và hứng khởi. Đó cũng là thông điệp tận cùng tâm trạng của người ra đi và người ở lại: Mình về mình có nhớ mình, Mình về ta nhớ... Nỗi nhớ không bao giờ dứt, về những ký ức đã qua, những trải nghiệm đã trải qua: Phủ Thòng, đeo Giàng, sông Lô, phố Ràng...; nhớ như những dấu mốc của tình yêu dài lâu không ngừng: Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.... Nỗi nhớ được chuyển hóa từ chủ thể sang đối tượng: Ai về ai có nhớ không? Trong nỗi nhớ, không chỉ có cảnh và con người, không chỉ có thiên nhiên và sinh hoạt - trong nỗi nhớ còn giữ nguyên âm thanh vang dội của cuộc hành quân ái quốc:
Những dòng Việt Bắc của ta
Đêm đêm vang lên như đất rung
Quân đi đêm điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn và chiếc mũ nan
Dân công đỏ đuốc mỗi đoàn
Bước chân nát đá, lửa bay muôn phía...
Không chỉ là một con đường mà là những con đường rộng lớn của Việt Bắc, tiếng bước chân quân đoàn hòa quyện vang vọng. Câu thơ nối liền nhau qua từ điệp (điệp điệp trùng trùng), thông qua hình ảnh thơ nối dài vô tận: điệp điệp trùng trùng - ánh sao - mũ nan - dân công... tạo nên một sức mạnh tổng hợp, đánh bại kẻ thù: Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. Một loạt động từ mạnh mẽ được sử dụng để diễn đạt hào khí vững chãi. Nếu ở đoạn thơ trước, nỗi nhớ kết hợp với âm thanh chiến thắng tạo nên dấu nối:
Tin vui chiến thắng lan tỏa khắp nơi
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên đều hân hoan
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Niềm vui chiến thắng dường như tràn ngập từ câu thơ ra, tràn ngập khoảng trống giữa các từ và dòng thơ... đến vô tận!
Trong niềm vui tràn đầy, nỗi nhớ quay về thủ đô kháng chiến. Ngọn cờ đỏ thắm bay trong gió cửa hang, như một kỷ niệm về thời kỳ trung tâm có hình ảnh Bác Hồ - biểu tượng của lý tưởng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Kết thúc đoạn thơ là một tóm tắt:
Mười lăm năm trôi qua ai có thể quên
Quê hương cách mạng, nơi mầm non cộng hòa nảy mầm
Tâm hồn ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê hương cách mạng là truyền thống sống, lẽ làm người chân chính. Việt Bắc - nơi khó khăn, nhưng kiên cường; Việt Bắc - nơi đậm đà tình nghĩa và tình yêu nước, sẽ luôn là ký ức và niềm đồng cảm bền vững. Đoạn thơ này sử dụng vần truyền thống, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh mộc mạc để thể hiện sâu sắc tình cảm dân tộc và tình yêu quê hương, không chỉ của tác giả mà còn của chúng ta với Việt Bắc thân yêu.
4. Mẫu số 4: Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Tố Hữu, nhà thơ tâm huyết của dân tộc, một tượng đài văn hóa trong văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông không chỉ phản ánh tư tưởng và cuộc sống cá nhân mà còn là góc nhìn sáng tạo về những sự kiện lớn của cách mạng. Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng tại Điện Biên Phủ, bộ đội phải rời chiến khu Việt Bắc. Niềm nhớ và tình thương dành cho quê hương, những năm kháng chiến khó khăn, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ Việt Bắc.
Bắt đầu bài thơ Việt Bắc là cuộc chia tay đầy xúc động của những chiến sĩ và dân chúng nơi này:
'Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. . . '
Tám câu thơ đầu tả lại khung cảnh và cảm xúc của cuộc chia ly. Luôn như thế 'Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn'.
Sau nhiều năm sống chung tại Việt Bắc, trong tình cảm đoàn kết của quân dân, bây giờ những chiến sĩ phải rời bỏ. Mảnh đất thân thương giờ đây phải chia tay. Cặp từ 'mình ta' thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa quân và dân. Cảm xúc này như mối quan hệ trong gia đình. Bốn câu thơ đầu là lời người dân Việt Bắc, tràn đầy nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc với những năm tháng thiết tha ấy. Họ hỏi liệu chiến sĩ có còn nhớ những kỷ niệm ấy không, nhớ về con người và về núi rừng đây. Có khi họ không biết rằng những chiến sĩ về có nhớ không, nhớ đến con người và cảnh đẹp nơi đây. Đoạn thơ giống như là sự đáp lại của những chiến sĩ, cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của người dân. Tâm hồn của chiến sĩ rối bời, đầy xúc động, không muốn rời bước. Câu hỏi bao giờ cũng là câu trả lời, và không cần từ ngôn là họ cũng hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc trong lòng nhau.
Phân tích chi tiết bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Sau đó, trong bối cảnh đó, những con người ở lại hồi tưởng về những kỷ niệm mười lăm năm đầy thiết tha:
'Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?'
Những người dân Việt Bắc luôn ghi nhớ những khoảnh khắc khó quên, như mưa nguồn suối lũ về, cả trời đất che phủ bởi mây mù. Những người chiến sĩ luôn ở bên họ trong những thời khắc khó khăn như vậy. Hoặc có khi những người chiến sĩ trở về, liệu họ có nhớ chiến khu, với miếng cơm chấm muối và gánh nặng thù oán nặng nề? Rừng núi đây nhớ đến ai, trám bùi để rụng, măng mai để già. Những đặc điểm của thiên nhiên Việt Bắc, từ những chi tiết nhỏ như trám bùi, măng mai đều trở thành dấu vết của thời gian và cảm xúc sâu sắc. Câu hỏi 'Mình đi, mình có nhớ mình' thể hiện sự tận tụy của những người dân, đong đầy tình yêu thương và niềm nhớ thương. Việc sử dụng các địa danh như Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa làm cho bức tranh của quê hương trở nên sống động và đầy ắp ký ức chiến tranh.
Trước những lời tạ biệt đong đầy cảm xúc ấy, chiến sĩ cách mạng cũng chia sẻ những suy nghĩ sâu sắc về tình cảm gắn bó:
'Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu. . .
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi. . .
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa. . . '
Tố Hữu cũng truyền đạt bằng lời nói giản dị như người dân nơi đây. Dù người chiến sĩ cách mạng phải rời bỏ, tình cảm của họ với quê hương không bao giờ phai nhạt. Tình cảm giữa những người ở lại và những người ra đi tựa như dòng suối không ngừng chảy. Họ kiên định với lời thề với nhau. Những kí ức quý báu được tái hiện trong từng câu chuyện của người đi. Những kỉ niệm về bát cơm chia sẻ, chăn sui đắp chung. Giai điệu buồn khi nhớ về người mẹ với đứa con đang bế nón hái bắp ngô. Những lớp học giáo dục, đám đèn đuốc lung linh trong đêm, và những ngày làm việc khó khăn trong tổ chức. Tiếng mõ rừng chiều và tiếng chày đêm nện cối dường như còn vang vọng mãi sau bước chân ra đi. Những tình cảm này thật sự là tận cùng nồng ấm và chân thành.
Các chiến sĩ tiếp tục kể về những hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên nơi đây, mô tả những vẻ đẹp của cả bốn mùa:
'Ta về, mình có nhớ ta
Những hình ảnh mơ hồ của quê hương, mùa đông tuy lạnh buốt nhưng rất đẹp mắt.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Những ngày đong đầy năng lượng và hạnh phúc, người dân Việt Bắc lao động hăng say.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung. '
Xưng hô mình ta lần nữa được thay đổi, đặt chiến sĩ cách mạng vào vị trí 'Ta', và những người ở lại là 'Mình'. Hỏi nhau có nhớ nhau không, nhưng thực chất là thể hiện sự lưu luyến và yêu thương với quê hương. Những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên qua từng mùa: mùa đông với rừng xanh và hoa chuối đỏ, mùa xuân với hoa mơ trắng tinh khôi, mùa hè với rừng phách và người con gái hái măng, mùa thu với ánh trăng và tiếng hát ân tình. Tất cả tạo nên một bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp của Việt Bắc và tình cảm gắn bó của người chiến sĩ.
Nhà thơ kể về những địa danh quen thuộc liên quan đến chiến trận của những người chiến sĩ, để khắc sâu vào trái tim mỗi người về sự hi sinh và chiến thắng lịch sử:
'Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Những trận chiến kịch tính trong rừng và núi, mỗi góc đất Việt Nam đã chứng kiến.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng là bức tường bảo vệ đội quân miền Bắc.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời hòa mình vào chiến khu, tất cả cùng nhau hướng về mục tiêu chung.
Ai về ai có nhớ không?
Những kí ức về Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao-Lạng, Nhị Hà...
Những góc đất này là ký ức về những ngày chiến tranh khốc liệt. . . '
Thiên nhiên ôm trọn người con Việt Nam, những ngọn núi đá như bức tường vững chắc che chở người chiến sĩ và nhân dân trước bom đạn thù địch. Bộ đội và dân quân cùng đồng lòng, làm nên trang sử hào hùng. Người về vẫn ôm trong lòng những kỷ niệm chiến trận và những địa danh huyền thoại.
Không ai quên những ngày hành quân, chuẩn bị cho cuộc chiến chống Pháp. Tình quân dân hiện hữu mạnh mẽ, đoàn kết nhất trong những khoảnh khắc quyết liệt:
'Đường Việt Bắc của chúng ta
Ðêm đêm rung lên tiếng đất động
Quân và dân như một, ánh sao trên đầu súng và mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn, bước chân nát đá, lửa bốc lên muôn nơi.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày, đèn pha sáng như bình minh.
Chiến thắng rộn ràng từ Hòa Bình, Tây Bắc đến Điện Biên. '
Hình ảnh hành quân của người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc, mỗi bước chân là sức mạnh, mũ nan trên đầu như biểu tượng của lòng dũng cảm. Chiến dịch Điện Biên Phủ là sự đoàn kết và sáng tạo của cả dân và quân. Những đoàn dân quân với đuốc sáng tạo đánh lên bầu trời, thể hiện sự quyết tâm bảo vệ đất nước. Bức tranh nghệ thuật phản ánh sức mạnh tinh thần của nhân dân trong đêm tối khó khăn. 'Ðèn pha' sáng như hy vọng cho tương lai, là sự khích lệ cho những người đã sống qua khó khăn, đấu tranh cho tự do và hạnh phúc. Chiến thắng của nhân dân là niềm vui chung từ Hòa Bình, Tây Bắc đến Điện Biên, là niềm tự hào của cả quê hương.
Niềm vui và nhớ thương rời xa không muốn, nhà thơ tỏ ra tự hào về dân tộc, đồng thời kỷ niệm những buổi họp, bàn luận trong hang động núi rừng:
Ai về có nhớ không?
Cờ đỏ bay, gió vuốt cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, trường các khu mở rộng.
Ở nơi gặp khó khăn, quân thù tràn ngập
Nhìn lên Việt Bắc, Bác Hồ sáng soi
Ðau đớn nòi gốc
Nuôi chí bền nhìn về miền Bắc.
Mười lăm năm không quên
Quê hương cách mạng xây Cộng hòa
Mình về vẫn nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. '
Khi người chiến sĩ trở về miền xuôi, họ mang theo trong lòng những kỷ niệm và niềm vui kháng chiến. Cuộc sống và sự đoàn kết được thể hiện qua những câu thơ cuối cùng. Cờ đỏ sao vàng như biểu tượng thắng lợi. Chính ở những nơi khó khăn, Bác Hồ sáng soi như là nguồn động viên. Miền Bắc là nguồn động viên lớn, mỗi hành động là bức tranh sống động của ký ức chiến tranh.
Như vậy, Tố Hữu thể hiện tâm sự của mình và của cả cộng đồng Việt Bắc. Mười lăm năm kháng chiến để lại biết bao ký niệm và nay, khi phải chia xa, lòng nhớ mãi vẫn nồng thắm.
Bằng việc phân tích về Việt Bắc, chúng ta nhận thức được tình đoàn kết sâu sắc của con người Việt Nam, đặc biệt là tình quân dân. Để đạt được những chiến thắng trên mặt trận đó, không thể phớt lờ lòng biết ơn những người dân tận tâm ở Việt Bắc.
5. Bài mẫu số 5: Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc, một bức tranh thơ gồm hai phần. Đoạn trích 'Việt Bắc' của Tố Hữu, thuộc phần 1, tái hiện giai đoạn khó khăn, hùng vĩ của cách mạng và kháng chiến tại chiến khu Việt Bắc. Được coi là đỉnh cao thơ Tố Hữu, đồng thời là tác phẩm xuất sắc trong văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
Mở đầu bằng lời ước nguyện 'Mình về có nhớ...nhìn sông nhớ nguồn'. Lời ước nguyện đặt cho những người rời đi có nhớ về chiến khu Việt Bắc, về 15 năm kháng chiến, và nhớ về vẻ đẹp tự nhiên của nơi này. Thêm vào đó, đoạn thơ thể hiện lo lắng, nỗi niềm của những người ở lại, sợ rằng những người ra đi về thủ đô có thể quên đi vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng và cả những người ở lại.
'Trở về thành thị...trong lòng rừng'. Nhà thơ tận dụng nhiều từ ngữ tươi sáng biểu cảm tình cảm mật thiết, gắn bó sâu sắc. Mình ấy ta chính là một phần của cuộc sống. Tố Hữu thông qua người ở lại để bày tỏ tư duy chính trị sắc bén cùng tâm hồn nhạy bén của một người lính. Đồng thời, để người ở lại diễn đạt tình cảm và giúp người ra đi thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên. Điều quan trọng nhắc nhở về truyền thống, đạo đức và lòng nhân ái của cả dân tộc cũng được nhấn mạnh.
Bốn câu tiếp theo là lời của người ra đi. Tác giả sử dụng nghệ thuật đối chiếu trong một câu thơ để thể hiện tâm trạng lưu luyến, khắc sâu. Người ra đi cảm nhận sự rơi rụng, thiếu vắng trong tâm hồn, bước chân bất lực muốn ở lại. Tác giả tài tình sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ để diễn đạt lòng chân thành, cảm xúc sâu sắc của người ra đi đối với người ở lại. Màu á chàm, đơn giản mà đậm chất, là ấn tượng sâu sắc trong ký ức của Tố Hữu. Tám câu đầu tiên, cả người ra đi và người ở lại đều nhấn mạnh tình yêu thương chặt chẽ, khẳng định lòng đồng chí kiên trung. Tám câu đầu tiên mô tả cảnh chia ly ở núi rừng Việt Bắc giữa nhân dân và cán bộ cách mạng sắp trở về. Một lễ chia tay lịch sử, thiêng liêng và cảm động.
Mười hai câu thơ tiếp theo kết hợp nhau thành những câu lục bát liên tục. Sau mỗi câu lục, mở ra những câu bát để kể về những kí ức sâu sắc giữa người cán bộ cách mạng và Việt Bắc. Mỗi câu thơ như một trang nhật ký của người tham gia.
Những câu thơ miêu tả về thiên nhiên Việt Bắc không chỉ giản dị mà còn tràn đầy vẻ đẹp lãng mạn, mang theo đặc trưng vùng miền, chứa đựng hồn, hơi thở của Việt Bắc. Mười tám câu thơ mô tả thiên nhiên như là những dòng cảm xúc trôi chảy bất tận. 'Mình về ta có nhớ ta...ấn tình thủy chung'. Đoạn thơ này là một bức tranh tứ bình sôi động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh, ánh sáng, thể hiện tài năng miêu tả của tác giả. Ông sử dụng sự sáng tạo nghệ thuật trong việc vẽ nên bức tranh tứ bình, một biểu tượng của nghệ thuật hội họa truyền thống phương Đông. Bức tranh hiển thị bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của núi rừng Việt Bắc. Tác giả không mô tả chi tiết, nhưng chỉ ghi chép một số hình ảnh, nhưng là những hình ảnh tinh tế và sống động nhất. Đồng thời, trên nền của bức tranh tự nhiên, là hình ảnh của con người luôn lao động. Ở đây họ thể hiện sự chăm chỉ, sự kiên nhẫn, và lòng trung hiếu. Họ cũng là những con người trung thành, đầy tình nghĩa, nhân hậu và vị tha.
Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc mẫu số 5
Hai mươi hai câu thơ tiếp theo 'nhớ khi thù đến thù lùng...nhớ sang Nhị hà' là hình ảnh của thiên nhiên Việt Bắc đậm chất sức mạnh con người. Sự kết hợp hòa quyện, gắn bó giữa con người và thiên nhiên tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự đoàn kết toàn dân. Thiên nhiên Việt Bắc trở thành đồng minh đồng hành với con người, hình thành bức tranh về đất nước đoàn kết và kiên cường đấu tranh. Biện pháp liệt kê được sử dụng để tạo nên bức tranh sống động về các địa danh, tên làng, tên bản trên bản đồ địa lý khu vực. Điều này không chỉ là bằng chứng lịch sử mà còn là dấu ấn đậm nét của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Kết thúc đoạn trích là sự khen ngợi Đảng, tôn vinh Bác Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò thiêng liêng quan trọng của Việt Bắc trong cách mạng và chiến tranh. Việt Bắc không chỉ là nguồn cội, mà còn là nguồn sức mạnh to lớn. Nơi này cũng là quê hương của những địa danh truyền thống vững bền trong lịch sử dân tộc.
6. Bài mẫu số 6: Phân tích đoạn trích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc, một bài thơ trữ tình đằm thắm, chân thành, hiện hữu tình cảm sâu đậm và lòng trung thành của tác giả - người cán bộ chuẩn bị rời xa Việt Bắc về miền xuôi, đối với cứ điểm cách mạng của cả nước.
Là sáng tác thơ trường thiên dài 150 dòng, Tố Hữu hoàn thành vào tháng 1 năm 1954, đồng thời với việc Đảng và Nhà nước chúng ta chuẩn bị rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội sau chiến thắng, bản hòa bình thiết lập, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.
Việt Bắc không chỉ là tình cảm cá nhân của nhà thơ, mà còn là biểu tượng của tình yêu và lòng trung thành chung của những con người với quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc chiến đấu và cách mạng. Bài thơ là biểu tượng cho sự cao cả, lòng trung hiếu và lòng yêu nước sâu sắc trong tâm hồn những người con kháng chiến.
Việt Bắc mở ra một tình huống đặc biệt để thể hiện những cảm xúc trữ tình mãnh liệt. Cuộc chia tay ấm áp giữa người ở lại và người rời đi, giữa Việt Bắc và những người cán bộ chuẩn bị quay về miền xuôi, tràn ngập trong nỗi lưu luyến và sự bịn rịn. Đây cũng là khoảnh khắc chia tay của những người đã chia sẻ niềm vui và gian khổ, cùng nhau trải qua những thời kỳ khó khăn. Trong phút chia tay, họ hồi tưởng về những kỷ niệm đáng nhớ, khẳng định tình đồng chí vững bền và hẹn ước về một tương lai tươi sáng.
Việt Bắc khéo léo sử dụng hình thức đối đáp nam nữ trong dân ca, thường thấy sử dụng ngôn ngữ thân mật và tình cảm như: ta, mình. Ngôn ngữ thay đổi tùy vào bối cảnh, có thể là Việt Bắc hoặc những người cán bộ sắp về xuôi. Tuy nhiên, đôi khi, mình và ta trở nên lẫn lộn, biểu hiện cho sự đoàn kết, tình cảm sâu sắc giữa các tầng lớp cách mạng, thể hiện ý 'tuy hai mà một'.
Mặc dù có cấu trúc đối đáp, Việt Bắc không chỉ là lời hỏi và lời đáp mà còn là sự hò ứng, chia sẻ cùng một tâm trạng. Lời đáp không chỉ trả lời câu hỏi mà còn mở rộng, làm phong phú thêm ý tưởng đã được hỏi. Đôi khi, cả lời hỏi và lời đáp hòa mình thành một đồng điệu, làm phát huy tình cảm chung.
Thực tế, nếu quan sát sâu hơn cấu trúc bài thơ, ta nhận thấy đối thoại chỉ là một lớp ngoại vi, trong khi ẩn sau đó là lời độc thoại. Hình thức độc thoại là khả năng tỏ ra như 'tôi' trữ tình để đồng nhất với đối tượng, tạo ra sự hiểu rõ tâm trạng, khiến người đọc dễ dàng cảm nhận và chấp nhận tình cảm hơn.
Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Bài viết xuất sắc nhất
Bài giảng văn trong sách giáo khoa mở đầu bằng đoạn hoài niệm về một Việt Bắc hùng vĩ, biểu tượng của cách mạng và kháng chiến. Đoạn trích thể hiện lòng nhớ mãnh liệt, khắc sâu nghĩa tình cách mạng của người cán bộ về xuôi đối với quê hương Việt Bắc.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh chia tay đầy quyến luyến giữa Việt Bắc và người cán bộ sắp về xuôi, như đôi tình nhân đã cùng chia sẻ mọi khó khăn, vui buồn. Sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình - ta tạo ra sự sinh động, linh hoạt và đầy xúc cảm trong bài thơ, thể hiện nghĩa tình cách mạng sâu sắc.
Bao trùm trong nỗi nhớ sâu nặng của kẻ ở và người đi là ký ức về những ngày kháng chiến và cách mạng. Nỗi nhớ đó tái hiện bức tranh về Việt Bắc, nhân dân, cán bộ, và cuộc sống sôi nổi trong thời kỳ kháng chiến. Những ký ức đa dạng từ chi tiết rõ ràng đến hình ảnh mơ hồ được lồng ghép tinh tế, tạo nên bức tranh hùng vĩ và đầy cảm xúc.
Nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ là về thiên nhiên Việt Bắc, cuộc sống ở đây, và những kỷ niệm gian khổ và hào hùng trong cuộc sống kháng chiến.
Hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc được tả qua những đường nét đẹp đa dạng, trong sương sớm, nắng chiều, trăng khuya và bốn mùa, luôn gắn bó hài hoà với cuộc sống con người. Bóng dáng con người là điểm làm cho cảnh đẹp hoang sơ trở nên ấm áp. Một đoạn thơ nổi bật như sau:
Ta về, nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, nắng ánh dao cài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu, rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu, trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình, thuỷ chung
Đoạn thơ về cảnh đẹp của Tố Hữu được nhiều người đánh giá cao, như sự tả cảnh trong Truyện Kiều.
Cuộc sống của người Việt Bắc hiện lên qua nhiều khung cảnh bình dị, thân thuộc. Có những hình ảnh thơ mộng, thanh bình như:
Nhớ đến tiếng hát của rừng chiều
Chày đêm gõ cối âm nhạc suối xa xa
Dù có những khung cảnh khó khăn cơ bản, nhưng lại tràn ngập tình thương và tâm huyết:
Yêu thương nhau, chia sẻ những bữa cơm giản dị
Chia nửa chiếc chăn ấm lòng
Nhớ về người mẹ với đôi vai nắng cháy
Đưa con lên rẫy, bẻ từng nhánh ngô xanh
Còn những ký ức riêng tư gắn liền với từng bản khói và hương sương
Bếp lửa sưởi ấm gia đình người thương trở về mỗi sớm tối.
Điều cảm xúc hơn cả là những dòng thơ mô tả cuộc sống và sinh hoạt bình dị của những người dân miền núi, với những khó khăn, nhưng bền bỉ và trung thành với cách mạng và cuộc chiến tranh: Hắt hiu lau bụi mà lòng chất chứa tình yêu son sắt và lòng trung thành với cuộc đấu tranh.
Liền một dòng thơ là bức tranh hùng vĩ về cuộc kháng chiến ở Việt Bắc, với hình ảnh rộng lớn, tràn ngập năng lượng, và sôi động khi các đoàn quân dân công hiên ngang trên những con đường:
Các con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm như đất động sóng
Quân điệp điệp, bước chân trùng trùng
Ánh sao trên đầu súng và chiếc mũ nan
Đoàn công đỏ rực, từng bước đi
Bước chân làm nát đá, lửa bay muôn phía...
Kết thúc phần 1 của bài thơ là hình ảnh một cuộc họp của Trung ương Đảng, Chính phủ - bộ não của chiến dịch kháng chiến, với sự giản dị và trang nghiêm được thể hiện qua tám câu thơ rực rỡ. Để khẳng định lòng tin của nhân dân toàn quốc vào Việt Bắc, Tố Hữu tái tạo những vần thơ thuần dân tộc, trang trọng và đầy ý nghĩa:
Ở những nơi u ám bởi quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Ánh sáng Cụ Hồ tỏa sáng
Ở những nơi đau đớn giống nòi
Ngắm nhìn Việt Bắc, nơi nuôi dưỡng lòng kiên trì
Mười lăm năm đó, ai có thể quên
Quê hương cách mạng là Cộng hoà...
Như vậy, Việt Bắc là một bản thơ dài theo thể loại lục bát truyền thống, sử dụng cả hình thức đối đáp phổ biến trong các bài hát quan họ hoặc dân ca ca dao. Bằng cách sử dụng hình thức đối đáp giữa ta - mình, mình - ta, tạo nên sự gắn kết và quấn quýt, tạo cảm giác thân thuộc, gần gũi với mọi người Việt Nam. Do đó, bài thơ mang đậm tinh thần trữ tình, tinh tế về tình cảm, đồng thời điệu nhạc của nó cũng rất ấn tượng. Việt Bắc của Tố Hữu thực sự là đỉnh cao của văn học cách mạng Việt Nam.
7. Mẫu số 7: Phân tích đoạn trích từ bài thơ Việt Bắc
Thơ của Tố Hữu là ngôn ngữ của dân tộc, của tâm hồn những con người mật thiết với cách mạng, với quê hương và đất nước. Trong những vần thơ đó, ta sẽ cảm nhận được tình yêu sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ trái tim trung thành với dân tộc và nhân dân, đặc biệt là trong bài thơ Việt Bắc - một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh Nguyễn Duy Thành, quê quán tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi nảy mầm văn hóa dân gian. Tố Hữu là một nhà thơ vĩ đại, là pionieer của thơ ca cách mạng Việt Nam, nơi mà thơ của ông luôn liên kết với những giai đoạn cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ của ông thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa trữ tình chính trị, hướng về những giá trị chung của cuộc sống, niềm vui lớn, và cái tôi cá nhân luôn đồng điệu với Đảng, cộng đồng dân tộc, với những vần thơ giàu nhạc điệu và đậm bản sắc dân tộc.
Văn bản mẫu Phân tích đoạn trích từ bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ chấn thương thế giới mở ra một trang sử mới, một kỷ nguyên mới cho đất nước. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954), miền Bắc giải phóng hoàn toàn, Pháp rút quân. Tháng 10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị chính trị cho toàn bộ cơ quan Trung ương dời từ Việt Bắc về thủ đô. Những chiến sĩ cách mạng bước sang một giai đoạn mới, rời xa miền rừng núi để về phố, mở ra một trang mới của cách mạng, Việt Bắc hiện hình dưới tay thơ của nhà văn.
“- Ta về, có nhớ không mình?
Mười lăm năm, hồn nồng thiết tha.
Ta về, nhớ không mình?
Nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?
Tác giả sử dụng cặp xưng hô “ta-mình”, không chỉ là sự thể hiện tình cảm của đôi lứa mà là lời đối đáp của những người cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô này vừa đậm chất dân tộc lại thể hiện tình trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu. 'Mười lăm năm, hồn nồng thiết tha', mối liên kết không chỉ trong thời gian chiến đấu với Pháp mà từ cuộc kháng chiến chống Nhật, nhất là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Khoảng thời gian đó đủ để tình cảm giữa chiến sĩ cách mạng và dân Việt Bắc trở nên sắt son, thấm đẫm ân tình. 'Nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?', nỗi nhớ ấy lan tỏa khắp núi rừng, đầy yêu thương, gắn bó, làm sống một trái tim chân tình đến độ thiết tha như thế nào?
“- Tiếng hò tha thiết trên bờ cồn
Điệu nhảy trong lòng, nhịp chân đều đặn
Ánh mắt buông lơi, phút chia ly
Vẫn kề vai nhau, nói điều gì hôm nay…”
Từ từ “điệu nhảy” ánh sáng lên nhiều cảm xúc, ở đây 'điệu nhảy' có thể là biểu hiện của niềm vui, cũng có khi là niềm buồn. Từ lóng “tha thiết” được đổi thành “hò tha thiết”, thêm vào sự phóng khoáng và ấm áp. Từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” không chỉ chứa đựng nhiều tình cảm, mà còn mang đến hình ảnh một không khí đặc trưng, làm cho cảm xúc trở nên đặc sắc hơn. “Ánh mắt buông lơi”, tạo nên một khung cảnh lãng mạn, là biểu hiện của sự hiểu biết và chấp nhận. “Vẫn kề vai nhau, nói điều gì hôm nay…”, như một đoạn nhạc êm dịu, tình cảm được diễn đạt qua những câu chuyện ngắn, làm cho khoảnh khắc phân li trở nên ý nghĩa hơn.
“- Ta bước đi, hồi tưởng ngày xưa
Giọt mưa rơi, suối lũ nồng nàn
Khói mây dày đặc, khu chiến trường
Bữa cơm thêm muối, ganh tị trong vai?
Ta về, rừng núi đón chờ
Quả bùi rụng, măng mai già hóa.”
Sau mỗi lời “Ta bước đi”, “Ta về”, tác giả tạo nên một dấu chấm, là thời khắc quan trọng, là lúc ký ức trỗi dậy trong tâm trí. Những ký ức đó gắn liền với “ngày xưa”, không gian “khu chiến trường”. Những hình ảnh “giọt mưa rơi”, “suối lũ nồng nàn”, “bữa cơm thêm muối”, là biểu tượng cho những khó khăn mà những người làm cách mạng phải đối mặt, tạo nên tình cảm sâu sắc, gắn kết. Việc nhân hóa “rừng núi đón chờ” như một cách làm mới, làm phong phú thêm tình cảm, làm cho hình ảnh núi rừng trở nên thân thuộc và đẹp đẽ hơn. Những từ ngữ “quả bùi rụng”, “măng mai già hóa” thể hiện sự bi thương, cảm giác lạc lõng khi người cách mạng trở về, bội thuần trong tình cảm và tâm trạng khi bước chân vào một thế giới mới.
“Rời đi, hồi tưởng những mái nhà
Nước lau xám, lòng son sắt đặc
Trở về, hồn nhớ núi non
Ký ức kháng Nhật, ngày Việt Minh khởi nghĩa
Mình đi, nhớ đến chính mình
Tân Trào, Hồng Thái, cây đa, mái đình?”
Ký ức trở nên rõ ràng với từ “những mái nhà”, và câu thơ “Nước lau xám, lòng son sắt đặc” làm nổi bật sự gắn kết và đồng lòng trong khó khăn. Những người ở lại ghi chú về những ngày khó khăn từ những năm chiến đấu chống Nhật, làm cho ký ức càng trở nên sâu sắc. Lặp lại từ “mình” trong câu thơ “Mình đi, nhớ đến chính mình” tăng cường sự gắn bó và thiêng liêng của mỗi cá nhân. Các địa danh quen thuộc như “Tân Trào, Hồng Thái, cây đa, mái đình”, là những điểm nổi bật ký ức, đưa người đọc về những thời kỳ quan trọng trong lịch sử chiến đấu tại Tây Bắc.
“- Ta với mình, mình với ta
Con tim đập mạnh, tình nghĩa đậm sâu
Rời đi, nhớ về chính mình
Nghĩa tình dẫu biển nước cạn kiệt...
Nhớ như thương người yêu
Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều dìu dịu
Nhớ từng bản khói, sương mờ
Bếp lửa người thương sáng soi bước về.
Nhớ từng rừng núi, bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê trào đầy”
Mối quan hệ “ta-mình” tiếp tục được tôn vinh, cùng với câu thơ “Con tim đập mạnh, tình nghĩa đậm sâu” tạo nên sự gắn kết mạnh mẽ. “Rời đi, nhớ về chính mình”, là lời nhắc nhở về bản chất thiêng liêng của mỗi người trong hành trình cách mạng. So sánh trong câu “Nghĩa tình dẫu biển nước cạn kiệt...” thể hiện lòng trung thành vô hạn, giống như tình cảm yêu thương vô bờ của một người với người khác. Hình ảnh của “Trăng lên đỉnh núi”, “nắng chiều dìu dịu”, tạo nên bức tranh tĩnh lặng, hòa mình vào không khí hồn nhiên của Tây Bắc. Mỗi chi tiết nhỏ như “bếp lửa người thương”, “rừng núi, bờ tre”, đều là những hồi ức đẹp đẽ và sâu sắc trong tâm trí người cách mạng.
So sánh nỗi nhớ như nỗi tình yêu, làm cho tình cảm cách mạng trở nên tha thiết, dịu dàng hơn. Từ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương” thể hiện nỗi nhớ bao phủ mọi khoảnh khắc. “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” hình ảnh một Việt Bắc ấm áp, đậm chất mến thương. Điệp ngữ “nhớ từng” giúp ta cảm nhận được kỷ niệm qua từng trang ký ức, những địa danh “sông Đáy, suối Lê” không chỉ là địa điểm, mà là biểu tượng của những kỷ niệm đầy ắp, nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
“Ta đi, nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
“Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành của người đi dành cho người ở lại, của người cách mạng dành cho Việt Bắc anh hùng. “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” thể hiện tình cảm đồng lòng, chia sẻ, gắn bó của quân dân. Hình ảnh của người mẹ “Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” gợi lên vất vả gian lao của người mẹ trong kháng chiến. Sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nhớ đầy cảm xúc với những hoạt động tại chiến khu Việt Bắc, tạo nên không khí vui tươi, tình đoàn kết quân dân, thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin thắng lợi trong cuộc sống khó khăn.
“Ta về, nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên tươi đẹp, câu hỏi nhẹ nhàng “Ta về mình có nhớ ta”, chứa đựng nỗi nhớ sâu sắc và tình cảm đong đầy. Cụm từ “những hoa cùng người” như một nguyên tắc, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, tô điểm cho bức tranh mùa đông tại Việt Bắc, tạo cảm giác ấm áp trong cái lạnh của đất đỏ.
Hình ảnh con người trong tư thế lao động nổi bật, sáng tạo bằng nghệ thuật nhiếp ảnh. Mùa xuân với cảnh “mơ nở trắng rừng” tạo nên bức tranh tươi sáng, ấm áp. Hình ảnh “chuốt từng sợi giang” thể hiện sự cần cù và tỉ mỉ, ký ức về người lao động trong cuộc kháng chiến. Mùa hạ đậm chất sống động với tiếng ve rộn ràng, rừng phách tràn ngập sắc vàng. “Cô em gái hái măng một mình” là hình ảnh thơ mộng. Mùa thu hòa bình kết thúc bức tranh với ánh trăng lấp lánh, đúng như mùa thu thắng lợi năm 1954. Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” là dấu kết của cuộc kháng chiến hào hùng.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại không thể không nhắc đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến, “Giặc đến giặc lùng”, “Núi giăng thành lũy sắt dày” thể hiện sức mạnh của thiên nhiên và con người. “Ðất trời ta cả chiến khu một lòng” thể hiện sự gắn bó sâu sắc. “Nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa danh kết nối với chiến công, tất cả cùng nhau tạo nên nỗi nhớ trải dài khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng với nghệ thuật tu từ giúp khẳng định sức mạnh vĩ đại của dân tộc và bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc đối với núi rừng Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của chúng ta
Mỗi đêm reo rầm như lòng đất rì rầm
Bước chân quân công điệp điệp, sức mạnh trùng trùng
Ánh sao trên đầu súng và mũ nan của bạn nhấp nhô
Dân công đỏ lửa từng đoàn, bước chân vẫn kiên cường bước qua đá và lửa.
Đêm đêm thăm thẳm trong sương dày
Đèn pha sáng như ánh bình minh.
Tin vui về chiến thắng lan tỏa trên mọi miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên nở rộ vui mừng
Đồng Tháp, An Khê đến Việt Bắc, qua đèo De, núi Hồng đều đón chào.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của chúng ta” thể hiện sự liên kết mạnh mẽ của mảnh đất Việt Bắc, nơi chiến trường cách mạng nổi tiếng. So sánh “như lòng đất rì rầm” kết hợp với hình ảnh “quân công điệp điệp” thể hiện sức mạnh của đội quân chiến thắng, đoàn quân dẫn đầu với lòng dũng cảm. Câu thơ “Ánh sao trên đầu súng và mũ nan” sử dụng ẩn dụ, nhân hóa, và hoán dụ để miêu tả hình ảnh hùng vĩ của lính và súng. Dân công “đỏ lửa từng đoàn”, bước chân vẫn kiên cường trên đỉnh đá và trong ngọn lửa chiến tranh. Đèn pha sáng như ánh bình minh tượng trưng cho hy vọng trong đêm tối chiến tranh. Tin vui về chiến thắng tràn ngập, từ miền Nam đến miền Bắc, từ Điện Biên Phủ đến các vùng quê xa xôi.
“Ai về có nhớ không?
Cờ đỏ thắm tung bay trên cửa hang đỉnh núi.
Nắng trưa rực rỡ, sao vàng sánh kín
Trung ương và Chính phủ bàn bạc về công việc
Chiến dịch thu đông được triển khai
Nông thôn đang hối hả phát động, giao thông mở rộng đường đi
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Dao miền xuôi được gửi về, trường các khu được mở rộng...
Ở nơi nào đó nơi đèn sáng chói của quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng soi
Ở nơi đau thương giống như hồi sinh
Nhìn về Việt Bắc để nuôi lên ý chí kiên cường.
Mười lăm năm không quên
Quê hương cách mạng đã xây dựng nên Cộng hòa
Quay về và nhớ đến, mái đình Hồng Thái dưới tán đa Tân Trào.”
Những câu thơ cuối cùng mô tả Việt Bắc hồi phục sau chiến thắng, đầy màu sắc của cờ đỏ và ánh sáng. Trung ương và Chính phủ quay trở lại, Nông thôn nhộn nhịp với chiến dịch mới. Đoạn thơ ca ngợi công lao của Bác Hồ và lòng kiên cường của Việt Bắc. Các chiến sĩ quay về thủ đô, nhưng trong tim họ, Việt Bắc luôn là mảnh đất đặc biệt, “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào” là biểu tượng của lòng trung thành và tình yêu thương.