Trích đoạn thơ từ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm trạng đầy cảm động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý Kiều vào tình huống đó để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình. Đó là đoạn văn đầy ám ảnh bởi những đau khổ nội tâm của Kiều.
Trong khoảnh khắc bên ngoài dường như êm đềm, nhưng bên trong lòng Kiều đang rối bời, u ám. Tất cả những gì đã xảy ra trước đó lại hiện về, chỉ để lại cho Kiều cảm giác đau buồn, nhớ nhung vô hạn xoáy sâu vào tâm can của nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn ra phía trước là núi non xa xôi, nhìn lên phía trên là vầng trăng sáng ngời, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, như “bụi hồng” nhỏ bé.
Toàn bộ không gian rộng lớn, hoang sơ không một bóng người, không một tiếng chim, càng làm nổi bật thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của Kiều lúc này:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân……….Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Nàng cảm thấy buồn bã, chán chường, nhưng cảm giác trống trải, cô đơn ấy thì như vẫn cố chấp:
“Trống trải, đơn côi”:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Nàng tự trò chuyện với lòng mình, biết rằng không ai có thể chia sẻ.
Đầu tiên, nàng nhớ về Kim Trọng, nhớ về những lời hứa dưới ánh trăng lạnh lẽo, nỗi buồn sầu muộn, sự chờ đợi của chàng và sự giữ lời của mình.
Có lẽ lúc này, nàng thương chàng Kim vô cùng, vì họ không kịp nói lời tạm biệt, nỗi oán giận đột ngột:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng……..Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
“Xót người tựa của hôm mai…………..Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
…”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
…”Buồn trông ngọn nước mới sa”
…”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”
..”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”
Mỗi khung cảnh dưới ánh mắt của Kiều đều đậm đà một nỗi buồn khó diễn tả, có biển trời, nhưng mây trời thì lạnh lẽo, dòng nước thì mãi cuốn trôi những đám hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng lại là “gió cuốn”, “sóng xô” giữa cõi trời bao la, lại vào lúc hoàng hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cái buồng thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.
Mỗi khung cảnh như gợi lên một nỗi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng buồn chán về cuộc sống, về số phận của mình.
Nếu “Thuyền ai thấp thoáng” khiến nàng nghĩ đến cuộc sống trôi nổi, bấp bênh thì cảnh “nước chảy hoa trôi” lại gợi lên hình ảnh cuộc sống lênh đênh-một cuộc sống không có hướng đi “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nỗi buồn dường như đã dâng lên tột đỉnh:
“Buồn trông gió cuốn mặt dềnh
Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”
Tiếng sấm rền vang vọng, dữ dội bao phủ từng góc nhỏ như muốn cuốn đi cái thân phận nhỏ bé bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp đó. Có lẽ Nguyễn Du đã viết đúng: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Qua điệp khúc “Buồn trông….” của Kiều, ta cảm nhận được nỗi đau đớn mà nàng phải trải qua trong suốt quãng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc, khóc trên trận cười”.
Trong đoạn thơ này, chúng ta có thể nhận ra một đặc điểm trong nghệ thuật của Nguyễn Du: cảnh và tình luôn hoà hợp, tả cảnh là để tả tình, trong việc tả cảnh đã chứa đựng tình cảm. Truyện Kiều có hơn bốn ngàn câu, đoạn trích trên chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhiều người biết đến và quý trọng nhất, không chỉ vì tài năng văn chương của nhà thơ, mà còn vì tình yêu lớn lao của ông dành cho nhân vật, dành cho con người, dành cho cuộc đời.