Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình Chiểu: một người có cuộc đời đau thương, bất hạnh.
- Giới thiệu chung về đoạn trích 'Lẽ ghét thương'.
2. Thân bài
a. Thái độ ghét thương qua lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên
- Nhân vật ông Quán (chủ quán rượu) thuộc lực lượng chính nghĩa hỗ trợ nhân vật chính ( trên đường tìm chính nghĩa)
- Ông Quán có phong thái của một nhà nho ở ẩn, am tường kinh sử, và quặn lòng với những kẻ làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.
- “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”: Biết ghét là vì biết thương. Vì thương dân nên ghét những kẻ làm hại dân. Ông Quán bày tỏ thái độ thương ghét phân minh.
=> Đây là câu nói có tính chất khái quát tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu trong cả đoạn trích. Tác giả đã lí giải căn nguyên chuyện ghét thương của mình.
b. Mối quan hệ giữa ghét – thương trong thái độ ông Quán
b.1. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương dân lầm than
- Ghét:
+ Đời Kiệt, Trụ mê dâm >< dân sa hầm sẩy hang
+ Đời U, Lệ đa đoan >< dân lầm than
+ Đời Ngũ bá phân vân >< dân nhọc nhằn
+ Đời thúc quý phân băng >< rối dân
- Điệp từ “ghét”+ “đời” + liệt kê hàng loạt các điển cố: Kiệt, Trụ, U, Lệ, Ngũ bá, thúc quý + Nghệ thuật đối lập giữa vua quan với dân + điệp từ “dân” + động từ “sa, sẩy” + tính từ “lầm than, nhọc nhằn, rối”=> Tác giả căm ghét những tên vua dâm ác, tham tàn, bạo ngược, những kẻ đã gây ra hệ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng xót thương sâu sắc đối với người dân vô tội phải gánh chịu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.
=> Như vậy, tác giả đứng về phía nhân dân mà bày tỏ thái độ yêu ghét rạch ròi, đúng mực.
b.2. Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn – thương hiền tài không được trọng dụng
- Liệt kê các danh sĩ trong sử sách:
+ Khổng Tử: lận đận
+ Gia Cát: tài đức mà mệnh yểu
+ Nhan Tử: mưu lược tài ba nhưng không gặp thời
+ Đồng Tử: tài cao học rộng nhưng không được tin dùng
+ Nguyên Lượng: thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn
+ Hàn Dũ: ngay thẳng mà mang họa
+ Liêm, Trạc: Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học
- Điểm chung của các nhân vật này: họ đều là những người có tài, có chí muốn hành đạo, giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt được sở nguyện.
- Họ là những người đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu: ông muốn giúp đời, lập nên nhiều công danh nhưng cuộc đời đầy bất hành, lại thêm thời thế đầy nhiễu nhương. Bởi thơ, đoạn thơ chính là niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng của cụ Đồ Chiểu.
c. Tư tưởng và tấm lòng của tác giả
- Hai câu kết:
“Xem qua kinh mấy lần thi cử
Nửa phần lại ghét nửa phần thương.”
- Nghệ thuật tiểu đối => nỗi “thương” và “ghét” ở đây, tuy nói chuyện sử sách nhưng ít nhiều đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.
3. Kết bài:
- Cảm nhận chung về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Mẫu
Tham khảo bài số 1
Xuân Diệu đã nhận xét rất chính xác: “Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ thương ghét rất tài tình. Thực ra từ hàng ngàn năm trước, đó là tâm trạng phổ biến của nhân dân, và nhiều nhà thơ trước kia đã sáng tác về lòng tà, lòng chí; nhưng viết thành mấy chục câu thơ đơn giản, sắc nét, phân minh, rõ ràng, có điệu, có tâm, khiến bất kỳ ai cũng phải cảm động, thì ai đã thể hiện một cách đặc sắc như vậy ngoài Nguyễn Đình Chiểu”
Đây là đoạn trích lời phát biểu của ông Quán khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm thơ không ra, lại nghi ngờ đổ lỗi cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ của cố nhân, ông Quán bật cười, khuyên Tiên nên biết lựa bạn. Tiên xin ông nói cho lẽ ghét thương trong cuộc đời, từ đó mà ông Quán có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “Lẽ ghét thương'
Trong đoạn văn trên, ông Quán đã trình bày 10 dòng về ghét, 14 dòng về thương và kết lại bằng hai câu “nửa phần ghét, nửa phần thương” ở đời.
Ông Quán đã ghét điều gì? Qua bốn điều ghét: ghét đời Kiệt, Trụ, ghét đời u, Lẽ, ghét đời Ngũ Bá, ghét đời Thúc Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi, dối trá, hèn hạ, dâm dục... đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét ta cũng thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả.
Mức độ căm ghét của ông cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao đâm vào tâm hồn, sâu đậm, không mờ phai:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ông Quán đã thương điều gì? Qua bảy điều thương, ta thấy ông thương toàn nhà nho nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống. Vì sao lại thương họ? Ông thương đời họ dở dang, gặp bước gian truân, không có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của họ. Nhìn chung lại, ông Quán thương người có tài, có đức gặp khó khăn, bị đứt đoạn. Qua mấy điều thương này, ta thấy ông Quán hết lòng thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.
Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có ghét. Khi nói tới ghét các đời đa đoan, lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương dân. Khi nói tới niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ hiền tài.
Tổng hợp lại, ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét kẻ tiểu nhân đê tiện, nguồn gốc của mọi bất hạnh trong cuộc đời. Lẽ ghét thương của ông Quán cũng chính là lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hoàn toàn ủng hộ nhân dân, chính nghĩa. Sự lặp lại những từ “ghét đời”, “thương là”, “thương người”... có ý nghĩa như một dấu hiệu liệt kê. Sau mỗi từ đó, người đọc mong chờ thêm một hiện tượng đáng ghét, điều thương trong cuộc đời. Sự lặp lại tạo ra tác động biểu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dồi dào, chảy tuôn không ngừng trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Mấy câu thơ:
Quán nói: ghét công việc phô trương
Ghét cay, ghét đắng, ghét đậm vào tận trái tim
Là những câu thơ cực kỳ xuất sắc. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, thể hiện sức mạnh tình cảm. Hơn nữa, những từ ghét được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, êm dịu, tạo ra hiệu ứng sâu sắc. Cách diễn đạt là cách sử dụng từ ngữ: “ghét cay ghét đắng”, “ghét việc phô trương”, tự nhiên, thẳng thắn, không một chút lưỡng lự. Vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp sơ sài, trực tiếp, mạnh mẽ, và do đó mà rất mạnh mẽ.