Đề bài: Anh/chị hãy Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình, trích Truyện Kiều của Nguyễn Du
I. Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
2. Thân bài
3. Kết bài
II. Bài văn mẫu
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
3. Bài mẫu số 3
Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du
I. Dàn ý Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu bối cảnh của đoạn trích Nỗi thương mình.
2. Thân bài:
a. Khung cảnh lầu xanh trụy lạc, phóng túng:
- “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường.
- Hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc.
- Hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim.
- Khắc họa hình ảnh khách làng chơi bằng các điển tích, điển cố, nhân vật trong lịch sử như Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như.
b. Nỗi đau và tâm trạng của Thúy Kiều:
- “Khi tỉnh rượu lúc tàn canh/Giật mình lại thấy thương mình xót xa”: Ý thức về thân phận bọt bèo, giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm.
- “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước. Còn Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương.
- Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc.
- Khuôn mặt phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng.
- Lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình.
=> Cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều.
c. Vẻ đẹp tâm hồn Thúy Kiều:
- Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy
- “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều.
- “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, thể hiện hoàn cảnh trêu ngươi của Thúy Kiều, nàng vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, chán chường.
- “Ai tri âm đó mặn mà với ai” nỗi trăn trở về một người có thể thiếu hiểu, xót thương, mong mỏi thoát khỏi chốn phong trần. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên chán nản, xót xa đến tột cùng.
3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ.
II. Bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du
1. Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du, mẫu số 1 (Chuẩn)
Trong văn học trung đại, mỗi tác giả đều để lại dấu ấn của mình trong nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm đặc sắc. Và khi nhắc đến Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, không thể không kể đến tác phẩm kinh điển “Truyện Kiều”. Trong những trang sách của Kiều, chúng ta cảm nhận được nỗi đau mất mát mà nàng phải chịu đựng, nhưng đằng sau đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách kiêng kỵ của nàng. Đoạn thơ “Nỗi thương mình”, từ câu 1229 đến câu 1248, là minh chứng cho điều đó.
Bốn câu thơ đầu tiên của đoạn thơ “Nỗi thương mình” như một bức tranh trải ra trước mắt người đọc, vẽ lên cảnh tình bi thảm, đáng thương của Thúy Kiều.
Bao bướm lả ong lơi, cuộc sống đầy tháng vui đùa đêm, lá cây rung rinh theo gió, sáng sớm Tống Ngọc đưa tới đêm Trường Khanh tìm kiếm.
Với hình ảnh rực rỡ của những đóa hoa nở rộ, Thúy Kiều cảm nhận cuộc sống sôi động tại chốn lầu xanh, nơi luôn tràn ngập tiếng cười và niềm vui.
Trước bức tranh đầy màu sắc của chốn lầu xanh, Thúy Kiều không ngừng chứng kiến sự đắng cay và lẻ loi trong cuộc sống.
Khi ánh sáng mờ dần sau bữa tiệc, Thúy Kiều nhận ra bản thân mình bị lạc lõng trong dòng đời u tối.
Câu thơ 'Khi ánh rượu tàn, lúc canh khuya' mở ra khung cảnh buổi tối tăm tối, khi mọi cuộc vui kết thúc, và Thúy Kiều bắt đầu trải nghiệm cảm giác lạc lõng, đau đớn trong lòng.
Khi sao lấp lánh bên kia cửa sổ,
Giờ sao nhạt nhòa giữa bức tranh cuộc sống.
Mặt sao phủ mờ ánh nắng mai
Thân sao mỏi mệt giữa dòng đời bận rộn.
Nghệ thuật so sánh hiệu quả đã được tác giả thể hiện thông qua việc đối chiếu giữa “phong gấm rủ là” với “tan tác như hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. Điều này làm nổi bật sự tương phản giữa quá khứ êm đềm và hiện tại khắc nghiệt, nhấn mạnh sự đau khổ, thất vọng của Thúy Kiều trong cuộc sống. Việc sử dụng các từ hỏi như “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên một tông điệu của sự tìm kiếm, tự đặt câu hỏi của Thúy Kiều về bản thân mình. Trong nỗi đau lòng, sự bất hạnh đó, Kiều đã nhận ra rõ ràng sự đối lập, sự chua chát giữa bản thân và thế gian.
Dưới mưa Sở, trên mây Tần
Đâu biết được ngày xuân đến lúc nào.
Phân tích đoạn thơ 'Nỗi thương mình' để hiểu rõ hơn về tình cảnh khốn khổ và tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều.
Không chỉ tương phản giữa quá khứ và hiện tại, Thúy Kiều còn phải đối mặt với sự đối lập giữa thế giới bên ngoài và tâm trạng bên trong của mình. Số phận bi kịch của Kiều được thể hiện rõ trong các câu thơ cuối cùng của đoạn trích.
Gió thổi nhẹ nhàng làm hoa lay đầu
Tuyết phủ trắng xóa cảnh sắc trăng nguyên.
Mọi cảnh đều mang hình bóng u buồn
Người buồn không có niềm vui nào tồn tại?
Ngắm câu thơ vẽ đẹp như tranh vẽ,
Cung đàn gần nước dưới ánh trăng và hoa.
Vui vẻ mà cũng buồn thảm trước hết,
Ai đã từng tri âm sâu đậm với ai?
Cuộc sống tại chốn lầu xanh không chỉ đẹp và tinh tế bên ngoài mà còn ẩn chứa sự phũ phàng, đau đớn bên trong. Thúy Kiều đối diện với sự giả dối của cảnh vật và cảm thấy cô đơn, không tìm thấy sự đồng cảm và yêu thương. Tâm trạng của Kiều được thể hiện qua các câu hỏi tư duy.
Tóm lại, đoạn trích 'Nỗi thương mình' đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với hình ảnh tạo cảm xúc, thể hiện rõ tâm trạng đau khổ và sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, vẻ đẹp tinh thần của nàng cũng được khẳng định qua từng dòng văn.
""""--KẾT THÚC""""--
Trong tác phẩm Kiều của Nguyễn Du, nỗi đau của nhân vật Kiều được miêu tả rất sâu sắc. Để hiểu rõ hơn về tâm trạng của Kiều khi phải rời xa quê nhà, bạn có thể đọc thêm Bài phân tích về đoạn Nỗi thương mình hoặc Cảm nhận về bài thơ Nỗi thương mình (trích từ Truyện Kiều).
2. Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du, mẫu số 2 (Chuẩn)
3. Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du, mẫu số 3:
Trích đoạn Nỗi đau tột cùng là cảnh Kiều đau đớn, cô đơn khi bị bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, phải chứng kiến cuộc sống trống vắng, buồn bã, nơi nước mắt cay đắng rơi với lời thổ lộ: “Đau đớn thay cho số phận đàn bà/Lời nói bạc mệnh cũng chung một cảnh”.
Trích từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần Lưu lạc của Truyện Kiều, mô tả cuộc sống éo le của Kiều tại lầu Ngưng Bích, nỗ lực thoát khỏi số phận kỹ nữ mua vui, nhưng bị đàn bà đời trước sở khanh giày vò, buộc Kiều tiếp khách.
“Bao bướm lả, ong lơi bâng quơ
Say mê đêm ngày, nhớ bao giờ cười.
Lá rơi, gió lay, chim rì rào,
Tối tìm Trường Khanh, sớm thấy Tống Ngọc.”
Mở đầu là hình ảnh lầu xanh lộng lẫy, xa hoa, lạ lùng, làm cho Kiều cảm thấy lạc lõng. Với “bướm lả, ong lơi”, tượng trưng cho sự hoang đường, suy tư của những kẻ ăn chơi; “cuộc say đầy tháng” với rượu chè ngày đêm, không biết ngày đêm; những lời đùa cợt, hành động không kiềm chế; cùng với sự đều đặn của kỹ nữ tiếp khách, không biết đối tượng là ai. Nguyễn Du đã thông qua đoạn này, mô tả chân thực cuộc sống thú vị, đầy sắc màu, ê chề tại lầu xanh, nơi phụ nữ trở thành đồ chơi, thỏa mãn lòng tham của kẻ giàu có. Kiều, với cái nhìn sâu sắc, nhận ra sự bẩn thỉu, vô trách nhiệm trong cuộc sống này.
Kiều, tượng trưng cho hình mẫu phụ nữ hoàn hảo, nhưng số phận đã đưa đẩy cô vào bãi rác của cuộc đời. Cô vùng vẫy, không chấp nhận trở thành kỹ nữ, nhưng cuối cùng phải chấp nhận sự thật đắng cay.
“Khi tỉnh mình từ cơn say,
Bỗng thấy lòng xót xa vay vẩy.”
Dù đã cố quên đi nỗi đau trong men rượu, nhưng khi tỉnh lại, Kiều lại phải đau đớn và xót xa hơn bao giờ hết.
Phân tích chi tiết đoạn thơ Nỗi thương mình của Nguyễn Du
Những dòng thơ tiếp theo là hồi ức đắng cay của Kiều, so sánh cuộc sống hoàn mỹ ngày xưa với thực tế đau đớn trong lầu xanh.
“Khi sao phong gấm rủ là,
Bây giờ tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường.”
Khi còn là tiểu thư được bao bọc, Kiều sống trong sự sang trọng và sự nâng niu của gia đình. Nhưng hiện tại, cô bị đẩy vào hoàn cảnh đau đớn và không còn giữ được bản sắc trước kia.
“Dù gió mưa Sở Tần đẩy,
Không biết xuân đến như thế nào.
Gió kề như hoa vẫn rất say,
Tuyết phủ bốn bề, trăng qua rèm.”
Dù cuộc sống vùi dập Kiều trong bùn đời, tâm hồn cô vẫn giữ vững thanh khiết như sen trắng.
“Khi sao gấm rủ là,
Nay tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường.”
Đoạn này thể hiện sự thương cảm với số phận của Kiều, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng bị bạc mệnh đẩy vào địa ngục của xã hội phong kiến.
""""-KẾT THÚC""""--
Truyện Kiều là tuyệt phẩm của văn học Việt Nam, tái hiện cuộc đời đầy gian nan của nàng Kiều, một người phụ nữ tài năng nhưng gặp phải số phận không công bằng. Cùng với Nỗi thương mình, các bạn có thể đọc thêm các đoạn trích khác như: Phân tích đoạn trích Trao duyên, Phân tích đoạn trích thề nguyền hoặc Phân tích đoạn trích Chí khí anh hùng.