Đề bài: Phân tích giá trị biểu cảm của 2 câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang:
' Lom khom dưới, núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.'
I. Dàn ý
II. Bài văn mẫu
Phân tích giá trị biểu cảm của 2 câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang
I. Dàn ý Phân tích giá trị biểu cảm của 2 câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và tóm tắt yêu cầu đề bài.
2. Nội dung chính
- Cảnh Đèo Ngang xuất hiện với vẻ hoang sơ, hùng vĩ, nhưng con người lại hiện diện thưa thớt, ít ỏi, 'chợ mấy nhà', 'tiều vài chú'.
- Những từ ngữ như 'lom khom', 'lác đác' mô tả hình ảnh nhỏ bé của con người và sự thưa thớt của những ngôi nhà đơn sơ bên sông.
- Số từ 'vài', 'mấy' tăng cường cảm giác cô đơn, tịch mịch cho cảnh vật...(Tiếp theo)
>> Chi tiết hơn trong Nội dung chínhPhân tích giá trị biểu cảm của 2 câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích giá trị biểu cảm của 2 câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang (Phiên bản Sáng Tạo)
Bà Huyện Thanh Quan, một nữ sĩ hiếm có của thế kỉ XIX, với chồng làm tri huyện Thanh Quan, được gọi là Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ 'Qua Đèo Ngang' viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, thể hiện tâm trạng cô đơn, hoài cổ, và nỗi nhớ nước thương nhà. Cảnh Đèo Ngang đẹp đẽ nhưng lòng người nặng trĩu nỗi niềm. Cảnh vật làm nền cho tâm trạng, cảm xúc thấm đẫm qua hai câu thơ, tạo nên giá trị biểu cảm trong bài 'Qua Đèo Ngang' của Bà Huyện Thanh Quan.
'Lom khom dưới, núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.'
Thu vào tầm mắt nữ sĩ là cảnh Đèo Ngang hoang sơ, heo hút. Hình ảnh con người xuất hiện như những điểm nhỏ mờ nhạt, dường như bị chìm trong không gian hùng vĩ của núi rừng. Những từ như 'lom khom', 'lác đác' tạo ra hình ảnh nhỏ bé của vài chú tiều và sự thưa thớt của những ngôi nhà đơn sơ bên sông. Trong bài thơ 'Chiều tối' của Hồ Chí Minh, hình ảnh cô gái xay ngô bên ánh lửa hồng làm bừng sáng bức tranh chiều tà, mang lại sự sống, ấm áp cho toàn bài thơ. Tuy nhiên, với Bà Huyện Thanh Quan, khi đứng chân tại Đèo Ngang vào lúc 'bóng xế tà', chỉ cảm nhận được sự lẻ loi, quạnh quẽ. Con người mặc dù xuất hiện, nhưng 'tiều vài chú', 'chợ mấy nhà' lại không đủ để tạo nên cảm giác vui tươi, sống động. Các từ 'vài', 'mấy' tăng cường sự cô đơn, tịch mịch cho cảnh vật và tâm trạng nữ sĩ. Bức tranh Đèo Ngang truyền đạt tâm tình sâu sắc, nhuốm nước buồn, giống như câu nói của Nguyễn Du: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?'. Người buồn thường thấy buồn bất kể nơi nào, đặc biệt là khi ánh dương chìm xuống, cảnh đẹp mênh mông, hùng vĩ, mà sự sống của con người xuất hiện quá ít ỏi.
Sự đối lập giữa bản lớn của không gian và con người bé nhỏ, kết hợp với sự đảo ngữ trong hai câu thơ, làm nổi bật tâm trạng buồn bã của Bà Huyện Thanh Quan. Dù cố gắng mở rộng tầm nhìn để tìm kiếm hình bóng con người ở 'dưới núi' và 'bên sông', sự sống ấy vẫn như chìm vào không gian bao la, tĩnh lặng. Cảm giác cô đơn trỗi dậy như ánh chiều tà mảnh khảnh bao phủ nhà thơ. Cảnh vật như đắm chìm trong nỗi u buồn vô tận của trái tim người sáng tác.
""""-HẾT""""--
Chúng tôi đã hướng dẫn cách lập dàn ý và phân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ trong bài Qua Đèo Ngang. Để hiểu rõ hơn về bài thơ, bạn có thể tham khảo những điểm đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Qua đèo Ngang, cũng như khám phá cảnh sắc thiên nhiên ở đèo Ngang và tâm trạng của người lữ khách xa quê qua bài thơ. Ngoài ra, có sẵn cả phân tích về nỗi nhớ nước và tình cảm thương nhớ nhà của tác giả trong bài thơ Qua Đèo Ngang. Ý kiến của bạn về bài thơ cũng rất quan trọng!