Đề bài: Phân Tích Thị Mầu lên chùa
Phân Tích Chi Tiết Thị Mầu lên chùa ( Trích từ tác phẩm Quan Âm Thị Kính)
I. Dàn ý phân tích Hành Trình của Thị Mầu:
1. Giới thiệu: Chào mừng đến với bài phân tích về Thị Mầu lên chùa, một hành trình đặc sắc trong vở chèo Quan Âm Thị Kính.
2. Phân tích chi tiết:
2.1. Tóm tắt và Chủ đề đoạn trích:
a. Tóm tắt nội dung:
- Thị Mầu lên chùa cúng tiến và gặp Kính Tâm.
b. Chủ đề:
- Phê phán phong tục phụ nữ lẳng lơ, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tinh tế của những người trung trinh.
2.2. Phân tích nhân vật:
a. Thị Mầu:
- Lời nói và hành động phóng túng.
b. Kính Tâm:
- Tính cách điềm đạm, giữ gìn phẩm thước.
2.3. Đánh giá đoạn trích:
a. Nội dung:
- Thể hiện sự đối lập xã hội giữa phụ nữ nổi loạn và phụ nữ đức hạnh.
b. Nghệ thuật:
- Sử dụng ngôn ngữ dân dụ, biện pháp tu từ sáng tạo.
3. Kết luận: Đánh giá ý nghĩa sâu sắc của đoạn trích trong bối cảnh văn hóa và xã hội.
Phân tích tác phẩm Thị Mầu lên chùa ( Trích Quan Âm Thị Kính)
II. Mẫu bài phân tích Thị Mầu lên chùa:
Chuyến đò vượt sóng đưa tôi đến đền từ ngày mười ba.
Ngày thứ mười ba,
Tâm trạng trước cảnh đẹp mười ba
Chú sư già mười bốn, phong thái quý phái như mười lăm
Muốn tặng một tháng trăng đầy
Trước khi bước vào lễ Phật, sau khi thăm đền cổ kính
Bước chân vào lễ Phật Thích Ca
Lễ kính Tam Thế, vua cha là Ngọc Hoàng quý phái.'
Lời mời chân thành, kể từ trái tim của Mầu, đã mở ra những hình ảnh ban đầu về tính cách và đặc điểm của nhân vật. Số từ 'mười ba' lặp lại nhiều lần nhấn mạnh vào ngày Mầu lên chùa cúng. Ba lần Mầu chọn lễ cúng là ngày mười ba, mười bốn, mười lăm để thể hiện lòng mong ước gặp gỡ người nhà chùa.
Ngay từ ánh nhìn đầu tiên về chú tiểu đẹp trai, Thị Mầu đã sử dụng những từ ngữ ngọt ngào, lừng lẫy. Khi Kính Tâm hỏi về tên để ghi vào sổ đỏ, Thị Mầu khéo léo tiết lộ một số thông tin cá nhân. Cô liên tục đề cập đến việc chưa có chồng và thể hiện mong muốn tìm kiếm hạnh phúc đôi lứa.
Niềm ao ước gặp gỡ của Mầu rõ ràng qua câu nói:
'Thưa thầy tiểu dễ thương!
Thầy như quả táo rơi xuống sân đình
Em như cô gái nồng, đi dạo chợ chua.'
Quả táo rơi xuống sân đình thường chín sau mùa xuân, vì không có ai chăm sóc nên vừa chua vừa đắng. Còn cô gái nồng là người có vẻ hấp dẫn, luôn muốn thử thách vị chua của cuộc sống. Mầu tự mình so sánh như cô gái nồng còn chú tiểu như quả táo rơi xuống sân đình, thể hiện sự mong đợi được hòa mình vào cuộc sống cùng chú tiểu. Mầu khi lên chùa không tập trung vào thờ Phật mà chỉ quan tâm đến việc trêu ghẹo chú tiểu. Nghe tin nhà mất bò, Mầu lạnh lùng trả lời 'Nhà tao vẫn còn nhiều trâu!'. Dù bị chỉ trích và phê phán, Mầu vẫn tự nhận mình là người chín chắn nhất trong gia đình 'Nhà tao có chín người, chỉ có mình tao là chín chắn nhất đấy!'.
Không chỉ dừng lại ở lời lẽ ngọt ngào, Thị Mầu tiếp tục trêu chọc chú tiểu qua từng giai điệu:
'Đôi bước đứng trước lối chùa
Gọi thầy tiểu nhưng chẳng thấy hồi âm, lòng tôi buồn bã
Ở kia, mấy thầy tiểu ơi!
Một dòng suối, năm bảy dòng suối
Duyên phận thế này mới nên, đừng để ý đến họ hàng
[...] Ôi những thầy tiểu tài năng!
Trúc xinh, trúc nở trước sân đình
Em xinh, em đứng một mình chẳng cần đến việc đẹp!'
Trong đoạn này, Mầu tận dụng những biểu tượng dân ca như 'cành tre', 'mẫu đơn', 'nhà thờ', 'thiếp', 'chàng', 'bữa cơm canh', 'trúc nở trước đình' để thể hiện tình cảm và tán tỉnh Kính Tâm. Nàng không màng đến những giới hạn xã hội, quan niệm về tình yêu của Mầu là sự tự do, thoải mái 'Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng'. Mầu 'muốn có thiếp, có chàng/ Ba sáu mười tám, bữa cơm canh'. Nàng cho rằng mình chỉ thực sự xinh đẹp khi có đối tác 'Em xinh em đứng một mình chẳng xinh!'. Hơn nữa, Mầu còn thể hiện sự táo bạo khi muốn 'lấy hơi của thầy tiểu', tiết lộ kế hoạch tương lai của mình: 'Tôi sẽ tìm nơi ẩn náu, chỉ cần tay tôi nắm chặt tay chú tiểu thì tôi mới hạnh phúc!'.
Khi chạm đến phần cuối của vở chèo, lời nói của Mầu trở nên mạnh mẽ hơn. Mầu thể hiện sự bất mãn và phản kháng khi đứng trước cửa chùa 'Bỏ mô Phật đi!'. Ở thời điểm này, Mầu không còn quan tâm đến việc thờ Phật, mà chỉ tập trung vào chú tiểu. Hành động này không chỉ là thiếu tôn trọng đối với tăng ni mà còn thể hiện sự thất vọng của Thị Mầu khi Kính Tâm không chú ý đến mình. Trong tâm trạng buồn bã, nàng thể hiện sự chán chường và uất hận:
'Muốn cải cách cây xanh tươi
Lươn lẹo, mướp đắng mọc thành hàng tre
Lắng nghe tôi nói điều này
Tri âm không thể hiện đúng bản chất
Để tôi yêu thương, nhớ mãi sầu riêng!'
Ngoài lời, tính cách của nhân vật được thể hiện qua những hành động mạnh mẽ, không kể xét đến quy tắc hay chuẩn mực. Thị Mầu táo bạo mở lòng, nắm tay, thậm chí còn thay Tiểu Kính làm công việc. Tất cả ngôn ngữ và hành động của Thị Mầu đều là minh chứng cho sự lẳng lơ, phóng khoáng trong bản tính con người.
Ngược lại với Thị Mầu, nhân vật chính - Kính Tâm, đậm chất đào chính, mang đến vẻ đẹp và phẩm chất đáng quý. Sinh ra trong gia đình nông dân, sau đó gả vào một gia đình giàu có, Kính Tâm vì hiểu lầm đã phải rời nhà và thậm chí cắt tóc giả trai để nhập chùa tu hành. Mặc dù ẩn mình dưới hình ảnh của một chú tiểu, nhưng Kính Tâm vẫn tỏ ra trang nghiêm. Thị Mầu đã dành những lời khen và ngợi ca, cho thấy nét đẹp thanh khiết, đoan trang của Kính Tâm.
Đối mặt với lời tán tỉnh và hành động quá mạnh mẽ của Thị Mầu, Kính Tâm luôn duy trì thái độ, lời nói, cử chỉ vô cùng mực thước:
'Nguyện cầu khắp nơi
Kính trình tôn thờ Tam Bảo
Hồn người đi theo đạo lý của lòng
Dâng lễ thành kính
[...] Xin Phật Thánh ánh sáng! Tôi vừa trải qua buổi lễ nhang, kính mời bà vào dâng lễ Phật.'
Đây là ngôn từ của một tâm hồn tu sĩ. Mỗi từ ngữ tuân theo luật lệ, triết lý của đại đạo Phật. Nghe Thị Mầu chia sẻ, Kính Tâm lặng lẽ niệm 'Nam mô A Di Đà Phật!' như là một sự từ chối nhẹ nhàng. Trước mù quáng của Thị Mầu, Kính Tâm bày tỏ tâm niệm qua những lời tự thoại:
'Nghĩ về những oan trái, lòng muốn rơi lệ
Nhìn lại nhân duyên, cảm giác như là trò đùa vô tình
Chắc chắn đó chỉ là sự trêu chọc không độc ý
Với ý đồ tốt, nhận thức rõ sự sợ hãi
'Chẳng hay đâu, có lẽ ta chỉ là...'
Đây là những suy nghĩ, kinh nghiệm của một linh hồn đã trải qua biết bao đau thương và chấn thương. Sống qua nhiều sự kiện đầy cay đắng, Kính Tâm cảm thấy buồn cười khi nhìn lại những quả duyên khó tin. Có những thứ tình cờ mang đến tiếng cười. Điều này giống với tình trạng hiện tại của Thị Mầu. Vì Thị Mầu hiểu lầm, bởi vì Kính Tâm chỉ là người phụ nữ giả trai. Khi Thị Mầu vồ lấy, Kính Tâm nhẹ nhàng nói: 'Xin hãy buông tôi, để tôi làm việc nhà chùa tránh mắng!'. Khi đối mặt với sự táo bạo của Thị Mầu, Kính Tâm phải bỏ chạy, cố gắng từ chối. Điều này thể hiện tính cách trung thực và thẳng thắn của Kính Tâm.
Có thể nói, Thị Mầu đại diện cho phụ nữ nổi loạn trong khi Kính Tâm là biểu tượng của phụ nữ hiền lành trong xã hội truyền thống. Trong đoạn trích này, tác giả muốn tôn vinh những người phụ nữ trung thực và chỉ trích những người tự do, hồn nhiên. Để làm nổi bật sự đối lập giữa hai nhân vật, tác giả sử dụng lời nói và hành động. Ngoài ra, sử dụng các biểu đồ tu từ độc đáo như so sánh 'Thầy như quả táo rơi sân đình/ Em như gái rượu, đi rình chùa', điệp ngữ 'Ấy mấy thầy bé ơi!', 'Chưa chồng kìa' và vận dụng văn hóa dân gian, ca dao truyền thống.
Trích đoạn 'Thị Mầu lên chùa' thể hiện quan điểm của tác giả về vai trò của phụ nữ trong xã hội xưa. Bài văn 'Thị Mầu lên chùa' cũng như vở chèo 'Quan Âm Thị Kính' sẽ được ghi nhớ lâu dài với những giá trị nhân văn và ý nghĩa mà nó mang lại.