Cao Bá Quát (1808 — 1855) là một nhà thơ vĩ đại của Việt Nam trong thế kỷ 19. Ông để lại hơn một nghìn bài thơ bằng chữ Hán và chữ Nôm; bài phú 'Tài tử đa cùng phú' và bài thơ chữ Hán 'Sa hành đoản ca' được nhiều người khen ngợi.
Hình ảnh bãi cát là một sáng tạo độc đáo của Cao Bá Quát. Các nhà học thường sử dụng các biểu tượng quen thuộc để diễn đạt tâm trạng chán ghét quan trường và nỗi nhớ quê hương.
Bài thơ mở đầu bằng tiếng thở dài chán ngán (trường sa phục trường sa - hết bãi cát này lại đến bãi cát khác), sau đó mới giải thích tại sao cảm thấy chán (đi một bước như lùi một bước). Rồi lại là bãi cát, tiếng thở dài phát ra (bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?). Những bãi cát dài tưởng như không giới hạn được đặt trong bối cảnh núi và biển bao quanh tạo cảm giác bế tắc. Nếu ai đi từ phía Bắc vào Huế, qua các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị sẽ thấy bãi cát, núi và biển bao quanh khách đi đường là một cảnh thực, qua bãi cát, lên núi, xuống biển là một công việc mệt nhọc. Việc sử dụng cảnh thực để diễn tả ý niệm về sự bế tắc của cuộc đời là một sáng tạo đặc biệt của Cao Bá Quát.
Sáu câu thơ sau liên kết chặt chẽ. Hai câu “Không học được tiên ông phép ngủ, Trèo non, Lội suối, giận không nguôi’’ thể hiện nỗi chán nản của tác giả vì phải tự mình hành hạ thân xác theo đuổi công danh vô nghĩa. Tác giả nhìn thấy dòng đời chạy theo danh lợi, say sưa như ngửi thấy hơi men, ít ai thoát khỏi cám dỗ. Sáu câu thơ này chuẩn bị cho kết luận: cần thoát ra khỏi cơn say danh lợi vô nghĩa.
Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát: chán nản, mệt mỏi, thương thân phận, oán trách cuộc sống. Cao Bá Quát không hào hứng khi đi Huế. Lên kinh đô là dịp phấn chấn về thành công, công danh, nhưng ông lại cảm thấy chán nản, miễn cưỡng. Kết thúc bài thơ là một câu hỏi ngụ ý: “Sao mình anh còn trơ trên bãi cát?”: Một câu hỏi dẫn tới hành động: Tiếp tục sống như vậy hay tìm một lối đi mới?
Hình ảnh bãi cát là một sáng tạo độc đáo của Cao Bá Quát. Nhà nho thường dùng biểu tượng quen thuộc để nói về tâm trạng chán ghét quan trường (hình ảnh ngọn cỏ bồng lìa gốc, cánh bèo trôi dạt trên sóng nước) và nỗi nhớ quê hương (hình ảnh rau thuần, cá vược, canh cua, đồng lúa, nương dâu, phần mộ tổ tiên không được chăm sóc,...) nhưng chưa có ai tìm ra biểu tượng nghệ thuật mới phản ánh con đường của người tri thức thời ấy.