Đề bài: Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ
I. Dàn ý chi tiết
II. Bài văn mẫu
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2
Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ
I. Dàn ý Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
1. Mở bài
* Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu về tác giả: Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, với hồn thơ sâu sắc và tình cảm thấu hiểu.
- Tác phẩm: “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là biểu tượng của tâm huyết và tình yêu quê hương.
- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Bài thơ tái hiện hình ảnh mẹ Tà ôi như một biểu tượng anh hùng của người mẹ Việt Nam.
2. Thân bài
* Hình ảnh người mẹ hiện lên liên quan chặt với cuộc sống lao động hàng ngày
- “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội” mẹ không chỉ chăm sóc gia đình mà còn là hậu phương đắc lực cho bộ đội kháng chiến.
- “Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng” mẹ và em bé như là một, cùng nhau chia sẻ những công việc khó nhọc.
* Hình ảnh người mẹ vẫn liên quan chặt với công việc lao động, nâng cao sản xuất
- Nghệ thuật tương phản giữa không gian rộng lớn của núi rừng và đời sống khó nhọc của người mẹ.
- Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời” thể hiện đứa con là nguồn sống của người mẹ và là nguồn năng lượng lớn nhất, động viên mẹ vượt qua gian truân, khó nhọc.
* Hình ảnh người mẹ nổi lên tại chiến trường
- Mẹ đóng góp vào “chuyển lán”, “đạp rừng”… công việc gian lao, khó nhọc.
- Hình ảnh em Cu – tai vẫn xuất hiện trên lưng mẹ giấc ngủ của em hòa mình vào cuộc hành trình của mẹ, đồng hành vượt qua mọi khó khăn, gian truân.
3. Kết bài
- Bài thơ không chỉ thể hiện tình cảm tác giả mà còn làm cho người đọc thêm yêu quý những bà mẹ Việt Nam anh hùng.
II. Bài văn mẫu Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
1. Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mẫu số 1 (Chuẩn):
Chúng ta biết đến Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu nổi bật trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông là một dòng thơ giàu suy tư, toát lên những cảm xúc sâu sắc trong từng câu thơ. Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là biểu tượng cho tâm huyết nghệ sĩ của ông. Toàn bộ bài thơ là sự hiện hữu của hình ảnh bà mẹ Tà ôi, một biểu tượng của người mẹ anh hùng Việt Nam.
“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” ra đời vào năm 1971 khi Nguyễn Khoa Điềm đang ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên. Năm 1984, bài thơ được in trong tập “Đất và khát vọng”. Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết như là lời ru, tác phẩm đưa người đọc hiểu được tình cảm trân trọng của người mẹ dành cho con cái.
Trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”, hình ảnh người mẹ hiện lên với cuộc sống lao động hằng ngày:
'Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:'
Trước hết, hình ảnh người mẹ liên quan mật thiết đến công việc làm nương rẫy, chăm sóc cuộc sống cho bộ đội kháng chiến. Để thu hoạch hạt gạo trắng tinh, để đảm bảo bữa cơm nóng hổi cho bộ đội, người mẹ phải lao động vất vả, rơi rụng biết bao giọt mồ hôi và công sức. Mặc dù không tham gia trực tiếp vào chiến trường, nhưng người mẹ đã đóng góp hết mình tại hậu phương, góp phần quan trọng vào chiến thắng của nhân dân. Đặc biệt, đoạn thơ tạo ra hình ảnh đẹp khi lao động của người mẹ kết hợp với giấc ngủ của đứa trẻ, như một nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng. Đây là hình ảnh tả thực và ấm áp, thể hiện tình cảm đồng hành giữa mẹ và con trong công việc khó khăn. Người mẹ và em bé như cùng nhau chia sẻ nhịp sống, cùng nhau vượt qua những thử thách.
Trong những câu thơ tiếp theo, hình ảnh người mẹ tiếp tục liên kết với lao động sản xuất:
-' Mẹ trỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi to lớn, mà lưng mẹ nhỏ,'
-' Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.'
Đầu tiên, Nguyễn Khoa Điềm khéo léo sử dụng thủ pháp tương phản để làm nổi bật không gian rộng lớn của núi rừng, đồng thời thể hiện rõ sự vất vả của người mẹ. Trong không gian mênh mông ấy, hình ảnh nhỏ bé của người mẹ vẫn tỏa sáng, toát lên khắp nơi. Người mẹ không chỉ lao động tích cực trong sản xuất mà còn mang trên vai 'mặt trời' của mẹ, đầy tình yêu thương và chăm sóc. Hình ảnh ẩn dụ này vừa là sự sống sót của đứa con, vừa là nguồn năng lượng mạnh mẽ, giúp mẹ vượt qua mọi gian truân, khó nhọc.
Sau đó, từ vị trí hậu phương vững chắc, hình ảnh người mẹ chuyển đến chiến trường, tham gia kháng chiến một cách trực tiếp:
'Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi để dành trận cuối.
Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường,
Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.'
Khi chiến tranh đến giai đoạn khó khăn nhất, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp đều đứng dậy, cầm súng ra trận. Người mẹ cũng góp mình vào 'chuyển lán', 'đạp rừng' trong những công việc khó khăn gấp trăm lần. Đứa con vẫn hiện hữu trên lưng mẹ, là nguồn sức mạnh và người bạn trung thành trên mỗi hành trình khó khăn.
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên chân thực và tình cảm, là người mẹ tần tảo, hy sinh cho kháng chiến, và nuôi dưỡng tình yêu thương anh hùng cho con cái.
Bài thơ không chỉ là tác phẩm của nhà thơ mà còn là bức tranh yêu thương đầy lòng của bà mẹ Việt Nam anh hùng trải dài trên đất nước.
2. Phân tích hình ảnh người mẹ Tà-ôi trong Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, mẫu số 2:
Một trong những tình cảm thiêng liêng, cao quý, thắm thiết nhất của con người là tình mẫu tử. Nguyễn Khoa Điềm, qua bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, đã tạo ra một cái nhìn mới và sáng tạo về vẻ đẹp của tình mẫu tử, đặt trong bối cảnh kháng chiến, đầy xúc cảm và ý nghĩa.
Nguyễn Khoa Điềm ra đời năm 1943 tại Huế, là một nhà thơ và chính trị gia Việt Nam. Tác phẩm nổi bật của ông như Đất và khát vọng, Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng... kết hợp cảm xúc sâu sắc và tư duy về đất nước, nhân dân.
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được sáng tác tại chiến khu phía Tây Thừa Thiên, ngày 25/3/1971. Xuất phát từ bối cảnh chiến tranh chống Mỹ, bài thơ là tác phẩm nhẹ nhàng, như lời ru, thể hiện tình cảm thiết tha của người mẹ đối với con cái và đất nước.
Những lời ru ấm áp, thiết tha trong bài thơ là biểu hiện của tình cảm mạnh mẽ giữa người mẹ và con cái, đồng thời mô tả cuộc sống lao động của bà mẹ trong hình ảnh như vỗ về, ôm ấp giấc ngủ của em Cu Tai.
'Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội,
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi,
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối,
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:'
Mắt mẹ Tà-ôi mở ra trong cảnh bàn tay chải gạo, công việc đầy mệt nhọc nuôi bộ đội. Hạt gạo trắng mịn nở hương, là đồng đội chất chứa nhiều hơn là thức ăn. Người mẹ không chỉ là nữ lao công nuôi sống bản thân mình, mà còn là nghệ nhân tạo ra những viên ngọc gạo quý báu cho chiến sĩ, góp phần quan trọng vào chiến thắng của nhân dân.
Ngoài công việc giã gạo, người mẹ Tà-ôi làm việc chăm chỉ ở chiến khu, đồng lòng với những bước chân của những người làm nông sản. Nguyễn Khoa Điềm truyền đạt hình ảnh mẹ thông qua những câu thơ nồng nàn:
'Mẹ trải bắp trên núi Ka-lưi,
Lưng núi to, lưng mẹ nhỏ xinh,'
'Mặt trời của bắp nằm trên đồi,
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.'
Nhà thơ tài năng đã khéo léo áp dụng kỹ thuật tương phản để làm nổi bật vẻ hùng vĩ của núi rừng, đồng thời tôn vinh hình ảnh mẹ vất vả tảo tần. Tấm lưng mẹ, mặc dù nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, tỏ ra kiêu hãnh hơn cả lưng núi. Trên đó, 'mặt trời' là người con yêu thương, là nguồn sống, năng lượng tiếp sức cho mẹ trong công việc lao động khó nhọc, tương tự như ánh mặt trời là nguồn sáng cho cây bắp sống và phát triển.
Hình ảnh mẹ xuất hiện trên chiến trường là bước phát triển không thể tránh khỏi. Mẹ, từ vị trí hậu phương, đã tham gia vào cuộc kháng chiến mạnh mẽ hơn, hỗ trợ bộ đội 'chuyển lán', 'đạp rừng', và 'giành trận cuối' chống lại quân Mỹ.
'Mẹ đang chuyển lán, mẹ bước đi đạp rừng.
Thằng Mỹ đuổi ta, con suối phải rời bỏ.
Anh trai nắm súng, chị gái cầm chông,
Mẹ địu em đi, dành trận cuối.
Trên lưng mẹ, em đến chiến trường,
Trong đói khổ, em vượt Trường Sơn.'
Trong bối cảnh cuộc kháng chiến trở nên khốc liệt, mọi đối tượng, mọi độ tuổi đều góp mình vào cuộc chiến, và người mẹ cũng từ góc sân giã gạo, ngọn đồi tỉa bắp, chuyển sang mặt trận để chiến đấu trực tiếp. Mẹ đi 'chuyển lán', đi 'đạp rừng' - những công việc khó khăn, đau khổ gấp nhiều lần. Nhưng người mẹ kia vẫn địu đứa con trên lưng, cùng nhau 'giành trận cuối', vượt qua rừng suối, đồng lòng băng qua Trường Sơn. Mẹ và con luôn bền chặt bên nhau, tựa vào nhau, chiến đấu với niềm tin vào một tương lai cách mạng.