1. Dàn ý phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến
1.1. Mở bài
Giới thiệu về nhà thơ Quang Dũng và tác phẩm Tây Tiến. (Quang Dũng nổi bật với giọng thơ phóng khoáng, tươi mới, điều này thể hiện rõ trong Tây Tiến).
1.2. Phần thân bài
- Khổ thơ mở đầu:
'Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về núi rừng, nỗi nhớ dâng trào.'
Câu cảm thán thể hiện nỗi tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng đoàn Tây Tiến. 'Nhớ dâng trào' diễn tả nỗi nhớ cô đơn, lạc lõng, luôn hiện hữu. Từ cảm thán 'ơi' kết hợp với từ láy 'dâng trào' tạo nên âm hưởng sâu lắng, lặp lại mãi trong tâm trí. Nỗi nhớ đau đáu, lan tỏa, đậm đặc cả không gian lẫn thời gian.
'Sài Khao sương phủ đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa nở trong đêm lạnh.'
Sài Khao và Mường Lát là những địa điểm mà đoàn quân đã đi qua, gợi nhớ về những vùng núi cao, sương mờ, tạo nên không gian thơ mộng và trữ tình.
'Dốc quanh co, dốc thăm thẳm,
Nhà nào Pha Luông, mưa xa lắc.'
- Khúc khuỷu và thăm thẳm nhấn mạnh sự hiểm trở và khó khăn của thiên nhiên.
- Sương mù bao phủ gợi sự cao vút của núi và độ sâu của dốc, tạo cảm giác vắng lặng, hoang sơ.
- “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” miêu tả sự gập ghềnh của rừng núi, giúp bạn đọc hình dung sự vất vả của người lính Tây Tiến.
- Pha Luông, mưa xa khơi như hiện ra từ trên cao, đưa tầm mắt của người lính về cảnh làng mạc Pha Luông mờ ảo trong sương, là phần thưởng cho nỗ lực của họ.
'Anh bạn dãi dầu không còn bước tiếp,
Gục xuống, súng mũ bỏ quên cuộc đời.'
- Khó khăn, gian khổ đôi khi khiến người lính muốn từ bỏ.
- Sự ra đi của đồng đội là nỗi đau lớn đối với những người ở lại.
Những con người tràn đầy tình cảm.
'Chiều chiều thác gầm oai linh,
Đêm đêm Mường Hịch cọp kêu.'
Những chiến sĩ đối mặt với hiểm nguy trong rừng sâu, nhưng bằng sự hài hước, họ coi đó chỉ là những tiếng gầm thét và sự trêu đùa.
'Nhớ ôi Tây Tiến cơm khói nghi ngút
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.'
Chiến sĩ nhớ về mùa vụ ở Mai Châu: những gia đình nấu cơm đầu mùa, hương vị nếp xôi, và các cô gái nơi đây.
1.3. Kết luận
Khẳng định giá trị của bài thơ: Tây Tiến đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Dù thời gian trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên vẻ đẹp và đóng góp vào kho tàng văn học Việt Nam.
2. Một số mẫu phân tích hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến
2.1 Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến (Mẫu số 1)
“Con đường lên Tây Bắc mờ xa thăm thẳm. Đường lên Tây Bắc mây trắng bồng bềnh như giấc mơ... Gặp lại dấu chân cha ông, hồi tưởng chín năm gian khó”. Những giai điệu trong bài hát 'Hành quân lên Tây Bắc' của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã đưa chúng ta trở về thời đạn lửa ở Tây Bắc. Trong nhiều tác phẩm văn học kháng chiến, Tây Tiến của Quang Dũng nổi bật với bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ và đầy lãng mạn. Bài thơ không chỉ là tượng đài người lính mà còn khắc họa vẻ đẹp của vùng núi Tây Bắc qua những ký ức và nỗi nhớ sâu sắc. Tây Tiến (1948) là một đỉnh cao trong sự nghiệp của Quang Dũng, hòa quyện thơ, nhạc và họa. Đọc bài thơ, người ta cảm nhận được sự giao thoa giữa hiện tại và quá khứ, giữa thực tại và hồi tưởng, với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... hiện lên rõ nét trong tâm trí người đọc, tạo nên một Tây Bắc vừa đẹp đẽ, vừa dữ dội và đầy mộng mơ.
'Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút mây trời, súng chạm đỉnh
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống'.
Ba câu thơ này thể hiện rõ quan niệm “thi trung hữu hoạ”, với hình ảnh thơ được vẽ bằng những nét đặc trưng và khái quát. Những hình ảnh này gây ấn tượng mạnh, gợi lên vẻ đẹp trùng điệp, hoang vu và hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Những dốc núi gập ghềnh, cao vời vợi, với mây phủ kín bốn mùa, tạo nên sự chênh vênh, hiểm trở. Câu thơ miêu tả con đường hành quân như được chia thành hai phần: lên cao và xuống thấp, thể hiện rõ sự hiểm trở của địa hình. Các hình ảnh thơ giàu chất nhạc và họa đã làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ và đầy gian khổ của Tây Bắc, nhấn mạnh sự khó khăn của thời Tây Tiến.
“Người bạn dãi dầu không thể tiếp tục
Gục đầu lên súng, bỏ lại cuộc đời!”.
Những thử thách dường như vượt quá giới hạn chịu đựng của con người. Các địa danh trong bài thơ, dù không quen thuộc như thôn Đoài, thôn Đông của Nguyễn Bính, lại tạo nên những bức tranh sinh động về con đường Tây Tiến, khắc sâu hình ảnh núi non hiểm trở của miền Tây Bắc vào tâm trí người đọc. Vùng Tây Bắc không chỉ là nơi ẩn chứa vẻ hoang sơ, âm u mà còn là thử thách ghê gớm với những hiểm nguy luôn rình rập. Những câu thơ về tiếng thác gầm thét và cọp rình rập như càng nhấn mạnh sự bí ẩn, hoang sơ của nơi đây. Nghệ thuật phối thanh trắc trong thơ tạo cảm giác nặng nề như bước chân thú dữ, làm nổi bật thử thách mà người lính phải đối mặt. Dù phải vượt qua sự dữ dội của thiên nhiên, người đại đội trưởng Tây Tiến vẫn giữ trong lòng hình ảnh Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa lãng mạn.
'Mường Lát hoa về trong đêm sương'.
Hình ảnh “hoa về” trong câu thơ gợi nhiều liên tưởng phong phú: có thể là hoa nở trong đêm sương, ngọn đuốc hành quân hay bóng dáng người đẹp. “Đêm sương” tái hiện không gian huyền ảo, lãng mạn của núi rừng qua màn sương mỏng manh. Sự phối hợp các thanh bằng tạo cảm giác mượt mà, như sương, hương, hoa và sự mềm mại của nụ hôn. Hình ảnh “hoa về” như một điểm sáng làm nổi bật vẻ đẹp tinh thần của người lính, làm dịu đi những khó khăn trên con đường hành quân. Trong khi bức tranh thiên nhiên Tây Bắc có phần dữ dội, câu thơ này như một giai điệu nhẹ nhàng, bay bổng của người lính Tây Tiến.
'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'.
“Mưa xa khơi” mô tả những cơn mưa rừng xối xả như mưa biển. Câu thơ cũng gợi cảm giác nhẹ nhõm của người lính sau hành trình vất vả, khi dừng chân bên dốc núi và nhìn ra xa, qua sương mù thấy những ngôi nhà như cánh buồm bồng bềnh trên biển. Câu thơ làm dịu lại cảm xúc với gam màu lạnh, đối lập với những gam màu nóng trước đó, tạo nên một không gian thơ mộng, rộng lớn, như bức tranh thuỷ mặc. Vùng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa lãng mạn, để lại dấu ấn sâu đậm trong ký ức người lính Tây Tiến.
'Người qua Châu Mộc vào chiều sương ấy
Có thấy hồn lau lướt trên bến bờ
Có nhớ hình bóng người trên thuyền độc mộc
Trôi giữa dòng nước lũ, hoa đong đưa'.
Bốn câu thơ này tiếp tục dệt nên bức tranh Tây Bắc bằng cảm xúc hồi tưởng, nối tiếp nỗi “nhớ chơi vơi” từ đầu bài thơ, là sự kết hợp của nỗi nhớ “hội đuốc hoa” từ trước. Cảnh Tây Bắc trong chiều sương Châu Mộc hiện lên như một miền cổ tích, với dòng sông đôi bờ lặng lẽ và hoang dã. Hình ảnh sương khói tái hiện không gian đặc trưng của Tây Tiến, gợi nhớ một thời hoài niệm đẹp đẽ và mờ ảo. Giống như Chế Lan Viên trong ký ức về Tây Bắc:
'Nhớ bản sương mù, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại không yêu thương'.
Cảnh vật hòa quyện với tâm hồn tạo nên một vẻ đẹp vừa mơ màng vừa xa xăm. Nhớ về chiều sương ở Châu Mộc với hình ảnh hồn lau thơ mộng, là nét đẹp đặc trưng của miền Tây Bắc. Mùa xuân, hoa lau tím rừng; thu đến, hoa lau trắng rừng; cờ lau phất phơ, lá lau xào xạc trong gió. Hình ảnh “hồn lau nẻo bến bờ” mang đậm dấu ấn thi nhân (GS. Phan Cự Đệ). Dòng sông như bức tranh cổ tích, nổi bật là hình dáng duyên dáng của cô gái trên thuyền độc mộc và những bông hoa bên dòng nước lũ. Những câu thơ không chỉ gợi mà còn vẽ nên bức tranh Tây Tiến sống động và huyền ảo. Núi rừng hiện lên mơ màng trong sương lạnh, mưa xa khơi, và màn sương như thực như mộng.
Những nét chấm phá nhẹ nhàng nhưng sống động thể hiện vẻ đẹp tinh tế của người lính, người Tây Tiến vẫn nâng niu những nét đẹp của núi rừng dù trong chiến tranh khốc liệt. Đằng sau những câu thơ giàu nhạc, giàu họa là tình yêu thương sâu sắc của Quang Dũng với cuộc sống miền Tây Bắc.
2.2 Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến (Mẫu số 2)
Văn chương không chỉ phản ánh vẻ đẹp của cuộc sống mà còn có sức mạnh làm hoàn thiện nhân cách của mỗi người. Các tác phẩm văn học như những chuyến phiêu lưu, đưa ta khám phá những vùng đất mới và mở rộng hiểu biết về vẻ đẹp thiên nhiên và đất nước:
“Con đường dẫn vào xứ Nghệ quanh co
Non xanh nước biếc tựa như tranh vẽ.”
Sau đó:
“Đồng Tháp Mười cò bay vút thẳng
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.”
Dù chưa đặt chân đến nơi đó, văn chương vẫn cho ta cảm nhận rõ nét về vẻ đẹp của những vùng đất được nhắc đến. Khi nói về Tây Bắc, văn chương không chỉ đưa ta đến một lần: chúng ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của rừng núi Tây Bắc qua bức tranh tứ bình trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. Qua trang thơ của Quang Dũng, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc lại hiện lên rõ nét trước mắt độc giả qua đoạn thơ này:
“Sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi!
Nhớ rừng núi, nỗi nhớ vơi đầy
Sài Khao sương phủ quân mệt mỏi
Mường Lát hoa nở trong đêm mờ
Dốc lên khúc khuỷu, dốc sâu thẳm
Vắng lặng mây trắng, súng chạm trời
Ngàn thước cao, ngàn thước thấp
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi
Bạn tôi dãi dầu không bước tiếp
Gục bên súng, quên đời mình
Chiều chiều thác gầm oai linh
Đêm đêm Mường Hịch, cọp đùa người
Nhớ Tây Tiến, cơm khói nghi ngút
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Đoạn thơ trên là phần mở đầu của bài thơ “Tây Tiến” do Quang Dũng sáng tác. Quang Dũng, một nghệ sĩ đa tài với khả năng làm thơ, viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc, đã sống và chiến đấu cùng đơn vị Tây Tiến. Dù sự nghiệp của ông không đồ sộ, bài thơ “Tây Tiến” vẫn là một tác phẩm nổi bật, ghi dấu ấn lâu dài. Tây Tiến, thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt - Lào và đối phó với quân Pháp. Đơn vị hoạt động rộng khắp từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, đến miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nưa (Lào). Những người lính Tây Tiến, phần lớn là thanh niên Hà Nội, chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn với thiếu thốn vật chất và dịch bệnh. Dù gian khổ, họ vẫn giữ tinh thần lạc quan và dũng cảm. Khi rời Tây Tiến vào cuối năm 1948, nỗi nhớ của Quang Dũng đã thôi thúc ông viết bài thơ “Tây Tiến” để gợi nhớ những kỷ niệm và cảnh vật nơi đây. Bài thơ khéo léo kết hợp hiện thực và lãng mạn để tái hiện vẻ đẹp hùng vĩ và gần gũi của thiên nhiên Tây Bắc. Hai câu thơ mở đầu, “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi,” thể hiện nỗi nhớ sâu sắc và thiết tha, như gọi một người bạn thân đã xa. Sông Mã, một địa danh gắn bó với hành trình của đoàn quân, hiện lên trong tâm trí nhà thơ, mở đầu cho dòng cảm xúc về sự xa cách và nỗi nhớ. Những cảm xúc này được cụ thể hóa qua hình ảnh mờ ảo và rõ nét trong bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc.
2.3 Phân tích bức tranh thiên nhiên của bài thơ Tây Tiến (Mẫu số 3)
Quang Dũng là một nhà thơ quân đội trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nghệ sĩ đa tài với khả năng làm thơ, viết văn, vẽ tranh. Bài thơ “Tây Tiến”, ra đời vào năm 1948, là kết quả từ nỗi nhớ của Quang Dũng về đơn vị Tây Tiến và miền Tây Bắc, nơi ông đã có nhiều kỷ niệm sống và chiến đấu. Đoạn thơ đầu của bài là một trong những đoạn thơ nổi bật, thể hiện nỗi nhớ sâu sắc của Quang Dũng về những ngày tháng gian khổ của người lính Tây Tiến trên những con đường hành quân đầy thử thách qua rừng núi hùng vĩ.
'Sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi!
.............................................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi'.
Quang Dũng viết bài thơ 'Tây Tiến' khi đã chuyển đơn vị, khi những hình ảnh đẹp nhất đã trở thành quá khứ. Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ sâu sắc về các chiến sĩ Tây Tiến gắn bó với vùng rừng núi Tây Bắc. Đoạn thơ khắc họa rõ nét cuộc sống và chiến đấu của đơn vị Tây Tiến ở miền Tây Bắc trong những ngày đầu chống Pháp. Mở đầu bằng câu cảm thán: 'Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!' như lời tâm sự và tình cảm sâu nặng của nhà thơ. Quang Dũng gọi tên 'sông Mã', hình ảnh biểu trưng của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, như một người bạn tri kỷ để nhớ về khi chia xa. Đoạn thơ nhấn mạnh nỗi nhớ bằng điệp từ 'nhớ' và từ láy 'chơi vơi' để cụ thể hóa nỗi nhớ dạt dào, lắng đọng của người đã sống và gắn bó với dòng 'sông Mã' và đơn vị Tây Tiến. Nỗi nhớ lan tỏa khắp không gian và thời gian, với hình ảnh miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, hoang sơ và bí ẩn: 'Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu' với địa hình hiểm trở và thời tiết khắc nghiệt.
'Dốc lên khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngan thước lên cao, ngàn thước xuống
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.'
Tây Bắc nhiều vách sâu và dốc cao, thường xuyên mưa nguồn, thác lũ, được miêu tả ấn tượng bởi Quang Dũng với nhiều từ láy tượng hình: 'khuỷu, thăm thẳm, heo hút' cùng nhịp thơ trắc trở như bị chia đôi: 'Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống'. Câu thơ như chênh vênh, trắc trở theo thế núi, đèo và bước chân hành quân của người lính Tây Tiến. Hình ảnh thơ vẽ ra hai sườn núi vút lên và đổ xuống gần như thẳng đứng. Dốc núi cao còn vực sâu 'thăm thẳm'. Một Tây Bắc hiểm trở, dữ dội được thể hiện qua âm thanh ghê rợn của 'thác gầm thét' và 'cọp trêu người' vào mỗi 'chiều chiều, đêm đêm' đe dọa tính mạng con người. Thiên nhiên hoang dã, bí ẩn và dữ dội được tái hiện chân thực qua bút pháp tả thực và các thủ pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn. Miêu tả thiên nhiên hoang dã để ca ngợi những con người oai phong, lẫm liệt, kiêu hùng trên chặng đường hành quân gian khổ. Sống gắn bó với Tây Bắc một thời gian dài, Quang Dũng có nhiều phát hiện mới mẻ về vùng đất này. Vùng biên giới Việt - Lào không chỉ hiện lên với chốn rừng thiêng nước độc mà còn là mảnh đất giàu chất thơ và nhiều kỷ niệm.
'Mường Lát hoa về trong đêm hơi
.............................................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.'
Tây Bắc hiện lên trong tâm trí của người thi sĩ như một bức tranh đầy cảm xúc và quyến rũ. Tại 'Mường Lát', đêm về hương hoa rừng lan tỏa, quyến rũ và kỳ diệu. Ở 'Pha Luông', những ngôi nhà như trôi nổi giữa biển mây, mỗi nơi đều có vẻ đẹp riêng biệt. Tây Bắc hiện ra như một cảnh sắc huyền ảo, hòa quyện giữa thực và mộng. Tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng, và hình ảnh 'Cơm lên khói - thơm nếp xôi' gợi nhớ về những ngày ấm áp, hạnh phúc và sự đoàn kết bền chặt. Cuộc sống giản dị nhưng đầy ý nghĩa, là nguồn động viên lớn lao cho người lính. Dù Tây Bắc khắc nghiệt, gian khó, các chàng trai Hà Thành hiện lên đầy hồn nhiên và lạc quan trong thơ của Quang Dũng. Hình ảnh 'súng ngửi trời' thể hiện tinh thần yêu đời của người lính, dù vất vả không làm mất đi sự lạc quan. Quang Dũng dùng ngôn từ giảm nhẹ để nói về sự hi sinh, cho thấy lòng kiên cường và tinh thần vượt khó của người lính. Bức chân dung của người lính Tây Tiến phù hợp với không khí thời đại và cuộc chiến khốc liệt.
2.4 Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến (Mẫu số 4)
Quang Dũng là một nghệ sĩ tài ba, không chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc, nhưng thành công nổi bật nhất của ông là thơ. Ông là một trong những nhà thơ vĩ đại của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nổi bật với hồn thơ lãng mạn và tài hoa. Được mệnh danh là nhà thơ của 'Xứ Đoài mây trắng' với các tác phẩm nổi tiếng như 'Mây đầu ô' và 'Thơ văn Quang Dũng'. Bài thơ 'Tây Tiến' không chỉ thể hiện nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa chân thực cuộc hành quân gian khổ và cảnh đẹp thiên nhiên miền Tây hùng vĩ và dữ dội.
'Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
............................................
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi'.
Bài thơ 'Tây Tiến' được viết trong bối cảnh đặc biệt khi Tây Tiến, một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh bại địch. Các chiến sĩ Tây Tiến, chủ yếu là thanh niên, học sinh và trí thức Hà Nội, đã chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhưng luôn lạc quan và dũng cảm. Quang Dũng, đại đội trưởng của đơn vị Tây Tiến, đã viết bài thơ 'Nhớ Tây Tiến' tại Phù Lưu Chanh vào cuối năm 1948, sau đó đổi tên thành 'Tây Tiến'. Mở đầu bài thơ, Quang Dũng diễn tả nỗi nhớ và tiếc nuối qua những dòng thơ đầy cảm xúc.
'Sông Mã đã xa, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ vô bờ'.
Dòng sông Mã như là điểm khơi gợi nỗi nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết, ngọt ngào. Nhà thơ khéo léo sử dụng từ láy 'vô bờ' kết hợp với vần 'ơi' để mở ra một không gian bao la của nỗi nhớ, đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó nắm bắt, cứ lãng đãng trong lòng người ra đi. Nỗi nhớ này như tràn ngập không gian, thể hiện sự đậm sâu qua câu thơ 'Nhớ về rừng núi, nhớ vô bờ'. Câu thơ có bảy từ nhưng lặp lại hai lần từ 'nhớ', làm nổi bật cảm xúc của toàn bài thơ. Không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ là 'Nhớ Tây Tiến'. Nỗi nhớ này lặp đi lặp lại trong toàn bài, tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng và bồi hồi. Tình cảm tha thiết, nỗi nhớ da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây và đồng đội cũ đã trở thành những kỷ niệm không thể quên. Không chỉ trong thơ Quang Dũng mà ngay từ trước đó, thơ ca Việt Nam cũng đã diễn tả nỗi nhớ qua các hình ảnh sống động.
'Nhớ ai xao xuyến bồi hồi
Như đứng lửa nóng, như ngồi than đốt'.
Quang Dũng mang đến cho nỗi nhớ một cách sáng tạo với trạng thái 'vô bờ' – một sự cô đơn lạc lõng giữa khoảng không, không có điểm bấu víu, chỉ còn lại những hoài niệm lửng lơ, sâu lắng và tha thiết. Nỗi nhớ bao trùm cả không gian và thời gian này đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc – nơi hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng. Những địa danh như 'Sài Khao', 'Mường Lát', 'Pha Luông', 'Mường Hịch', 'Mai Châu' không còn là những cái tên vô hồn trên bản đồ mà gợi lên không khí núi rừng xa xôi, hoang sơ và bí ẩn. Đường hành quân cũng đầy hiểm nguy và thử thách.
'Sài Khao sương mờ lấp đoàn quân mệt mỏi
Mường Lát hoa nở trong đêm lạnh'.
Con đường hành quân đầy gian truân, trên đỉnh Sài Khao sương dày 'lấp' đoàn quân, Quang Dũng dùng từ 'mỏi' để tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt mỏi, vẫn tiếp tục dưới lớp sương huyền bí. Đêm về tại Mường Lát, sương lan tỏa khắp không gian. Tác giả không dùng 'hoa nở' mà là 'hoa về' và không phải 'sương' mà là 'đêm hơi', làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn của các chiến sĩ Hà Thành. Con đường hành quân còn hiểm trở với núi cao và vực sâu thăm thẳm.
'Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống'.
Không gian được mở ra qua nhiều chiều: từ chiều cao đến chiều sâu của các dốc núi, vực thẳm và bề rộng của thung lũng mờ sương. Các từ láy tạo hình gợi cảm giác về những con đường quanh co, những đỉnh đèo khuất trong mây trời. Câu thơ 'Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống' với nhịp 4/3 tạo ra hình ảnh núi non gập ghềnh. Ba dòng thơ liên tiếp diễn tả sự vất vả của các chiến sĩ Tây Tiến trên con đường hành quân.
Trong khi ba câu thơ trên gợi lên cảm giác hiểm trở, câu thơ tiếp theo mang đến một phút bình yên bên những ngôi nhà xóm núi như cánh buồm trên biển trong không gian êm ả của mưa phủ thung lũng, trở thành 'xa khơi'. Câu thơ tạo nên cảm giác bình yên, như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu với kẻ thù và thiên nhiên khắc nghiệt.
'Chiều chiều thác gầm thét dữ dội
Đêm đêm Mường Hịch hổ trêu người'.
Quang Dũng nhớ đến âm thanh 'gầm thét' của thác dữ, tiếng hổ rình rập mỗi khi chiều đến và đêm về. Thời gian buổi chiều và đêm làm nổi bật sự hoang sơ của chốn 'sơn lâm bóng cả cây già'. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy trong thơ tạo ấn tượng về vùng núi hoang vu, nơi thiên nhiên hoang dã thống trị. Qua vài dòng thơ, Quang Dũng đã vẽ bức tranh núi rừng miền Tây với nét hiện thực và lãng mạn, tạo nên vẻ đẹp hài hòa. Đoạn thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà còn về những người lính, đồng đội cũ, với vẻ đẹp bi tráng trên con đường hành quân đầy gian khổ. Ấn tượng về người lính Tây Tiến còn nằm ở sự lạc quan, thể hiện qua câu thơ 'Heo hút cồn mây súng ngửi trời' – hình ảnh tinh nghịch và hóm hỉnh của người lính trẻ Hà Nội, khẳng định chí khí và sự quyết tâm của họ.
'Khung cảnh chiều tà thật đẹp, ánh sáng ráng chiều chiếu rọi lên những chiếc lá ngụy trang, hòa quyện với gió đèo.'
Trên hành trình gian khổ ấy, dù với cái nhìn lãng mạn và nghịch ngợm, người lính Tây Tiến không thể tránh khỏi sự thật đau lòng về những người đồng đội của mình.
'Anh bạn dãi dầu đã không còn tiếp tục, gục ngã bên súng mũ, bỏ lại cuộc đời.'
Tác giả không lảng tránh sự khốc liệt của cuộc chiến, thể hiện sự mất mát đau thương. Dù có những người đồng đội ngã xuống vì kiệt sức hay mũi súng kẻ thù, Quang Dũng dùng cách nói giảm, nói tránh để thể hiện cái chết không bi lụy mà vẫn kiêu hãnh, xem cái chết như một điều nhẹ nhàng. Thơ không gợi cảm giác bi lụy mà là sự ngang tàng, bất khuất: 'Gục lên súng mũ bỏ quên đời.' Sau cuộc hành quân vất vả, đoàn quân Tây Tiến dừng lại tại Mai Châu.
'Nhớ về Tây Tiến, cơm nóng tỏa khói, Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.'
'Nhớ ôi' là biểu hiện sâu sắc của tình cảm dạt dào từ những người lính Tây Tiến, thể hiện sự gắn bó keo sơn giữa quân và dân. Họ dừng chân tại một xóm núi sau hành trình vất vả, hòa mình trong niềm vui ấm áp với nồi cơm nóng hổi và mùi thơm nếp xôi. Hương vị của Tây Bắc và tình người sâu đậm không bao giờ phai nhạt trong lòng những người lính. Chế Lan Viên cũng đã viết về tình quân dân này trong 'Tiếng hát con tàu':
'Anh nắm tay em khi chiến dịch kết thúc
.........................................
Bữa xôi đầu còn giữ hương vị đậm đà.'
Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc mà còn sử dụng biện pháp nghệ thuật tinh tế như cảm hứng lãng mạn và bi tráng. Ông dùng từ ngữ đặc sắc về địa danh và kết hợp hài hòa chất nhạc, chất họa trong thơ. Dù chỉ là khúc dạo đầu, đoạn thơ trong 'Tây Tiến' đã ghi lại vẻ đẹp đặc biệt của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện lòng gắn bó của tác giả với quê hương và đồng đội. Đó là biểu hiện của tình yêu quê hương sâu nặng và tình cảm chân thành với đồng chí.
2.5 Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến (Mẫu số 5)
Thế giới không chỉ được tạo ra một lần mà mỗi lần nghệ sĩ xuất hiện là một lần thế giới được tái tạo. Cảnh vật thiên nhiên vẫn luôn hiện hữu, nhưng khi được viết trong thơ, chúng trở nên tuyệt đẹp lạ thường. Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc qua từng câu chữ của 'Tây Tiến' luôn gây bất ngờ. Quang Dũng đã viết rất hay về nỗi nhớ từ những nẻo đường tha hương và kháng chiến, về 'cố quận', 'Xứ Đoài mây trắng', 'ngọn Ba Vì mờ xa' và 'Tây Tiến'. Bài thơ viết năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, thể hiện nỗi nhớ nồng nàn với Tây Tiến và cảnh núi rừng Tây Tổ quốc. Không khí lãng mạn và tinh thần kiêu hùng của người con Hà Nội được thể hiện rõ nét trong thơ, với sự kết hợp giữa chất nhạc và chất họa, trang trọng nhưng cũng trẻ trung.
'Sài Khao bị phủ sương mờ đoàn quân mệt mỏi
Mường Lát như hoa nở trong đêm mờ.'
Bút pháp hiện thực của Quang Dũng miêu tả rõ nét đoàn quân mệt mỏi, hiện lên mờ ảo trong sương. Đêm sương trở thành 'đêm hơi' lãng mạn với ánh đuốc như những đóa hoa chập chờn. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên được thể hiện qua hình ảnh lãng mạn, tạo cảm giác hào hoa. Trong 'Tây Tiến', các con đường được kết hợp bằng địa danh Việt – Lào, vang lên như một bản ca trầm bổng, xa lạ và hiện đại.
'Dốc lên quanh co, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.'
Câu thơ 'Dốc lên quanh co, dốc thăm thẳm' với 5 chữ thanh trắc và điệp từ 'dốc' khắc họa con đường hành quân gập ghềnh. Từ láy 'heo hút' gợi cảm giác xa xôi. Nhà thơ không sao chép mà khắc họa cuộc sống sống động qua các từ ngữ tinh tế như 'cồn mây'. Hình ảnh nhân hóa 'súng ngửi trời' tạo sự độc đáo. Câu thơ sau vẽ hai chặng đường hành quân, với 'ngàn thước' và đối lập 'lên cao - xuống'. Quang Dũng kết hợp nhạc và họa trong thơ, tạo nên hình ảnh thiên nhiên dữ dội và êm đềm: 'Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.'
'Chiều chiều, thác gầm gào oai vệ
Đêm đêm, Mường Hịch cọp rình rập.'
'Thác gầm thét, cọp rình rập' là những hình ảnh nhân hóa làm nổi bật sự hoang sơ, dữ dội và bí ẩn của núi rừng Tây Bắc. Những cụm từ 'chiều chiều, đêm đêm' không chỉ thể hiện thời gian liên tục mà còn nhấn mạnh sự bền bỉ và mạnh mẽ của thiên nhiên nơi đây. Cảnh vật hoang dã này làm nổi bật sự kiên cường của người chiến sĩ trong cuộc hành quân Tây Tiến, tăng cường vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên miền Tây Bắc.
'Người đi Châu Mộc trong chiều sương ấy
Có thấy hồn lau ở bến bờ
Có thấy dáng người trên mộc độc
Trôi dòng nước lũ, hoa đong đưa.'
Một từ 'chiều sương' gợi ra cả thời gian và không gian. Trong cổ thi, chiều và sương thường gợi nỗi buồn và hoài cổ, nhưng Quang Dũng mang đến một cảm giác bình yên, nhẹ nhàng. Từ 'ấy' là một phần của kỉ niệm, dù không rõ ràng nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. 'Hồn lau' không chỉ đơn thuần là hình ảnh mà còn là linh hồn của vùng Tây Bắc, tạo nên một vẻ đẹp mơ màng. Câu thơ cuối vẽ nên hình ảnh người con gái Thái uyển chuyển giữa cảnh đẹp yên bình, với hình ảnh 'hoa đong đưa' gợi cảm giác về cái đẹp và sự duyên dáng của thiên nhiên.
'Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã vang lên khúc ca độc hành.'
Câu thơ sử dụng từ Hán Việt như 'áo bào' và 'khúc độc hành' tạo không khí trang trọng. Những người lính, dù chiến đấu trong áo vải, khi ngã xuống vẫn xứng đáng được kính trọng như các anh hùng. 'Áo bào' thể hiện sự trân trọng và ghi nhận đối với những chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc. Cái chết của họ được diễn tả qua 'khúc độc hành' của sông Mã, nâng tầm sự ra đi của họ lên mức trang nghiêm và uy nghi. Bốn câu cuối của 'Tây Tiến' tiếp tục hành trình kỉ niệm của đoàn quân hùng vĩ.
'Tây Tiến, người đi không lời hẹn ước
Con đường lên thăm thẳm, chia phôi tình
Ai đã đến Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn vẫn về Sầm Nứa, không về xuôi.'
Hai câu thơ đầu nhắc lại lời hứa của đoàn quân Tây Tiến lúc khởi hành: “Chí lớn chưa về bàn tay không”. Hai câu tiếp theo vừa là sự tự nhắc nhở, vừa là sự khẳng định trong ký ức rằng không thể quên những chặng đường đã đi qua. Dù đi đâu, hồn người vẫn về Sầm Nứa, nơi đã ghi dấu kỷ niệm, đồng đội, và sự hiến dâng. Thiên nhiên trong 'Tây Tiến' mang vẻ đẹp của tranh sơn thủy cổ xưa, hòa quyện với sự chân thực của cuộc sống hiện tại, phong vị khoáng đạt và hào hoa của Quang Dũng. Bài thơ sử dụng thể loại “Cổ phong trường thiên” để cảm xúc và hình ảnh thiên nhiên được trải dài, không bị bó buộc. Quang Dũng đã tạo nên hiệu quả không ngờ với bút pháp hiện thực lãng mạn, làm nên vẻ đẹp hào hùng và bi tráng. “Tây Tiến” là một ví dụ tiêu biểu cho sự kết hợp giữa nhạc và họa trong thơ, mang đến sự mới lạ và bất ngờ.
Dù thiên nhiên ở đâu cũng có vẻ đẹp, thơ ca luôn miêu tả trăng, hoa, tuyết, núi, sông. Nhưng tại sao thiên nhiên trong “Tây Tiến” lại khiến ta lưu luyến và ấn tượng sâu sắc? Bởi vì đó là cảnh của tình yêu, của con người, của một thời đại hùng vĩ và vĩ đại.
Hy vọng rằng bài viết từ Mytour đã mang lại cho quý độc giả những thông tin giá trị. Xin chân thành cảm ơn.