Đọc truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, một tác phẩm về cuộc đấu tranh chống lại thực thể đế quốc Mỹ của nhân dân Tây Nguyên, ai cũng cảm nhận được rằng hình ảnh xà nu đóng vai trò quan trọng, bao trùm cả tác phẩm. Xà nu là biểu tượng của sự sống, là linh hồn, là cốt truyện của tác phẩm.
Nguyễn Trung Thành có một mối liên kết sâu sắc với Tây Nguyên. Tác giả muốn truyền tải tình cảm đó qua câu chuyện về làng Xô Man chống lại Mỹ với những tấm gương, những cuộc sống lẻ loi, rạng ngời, nảy sinh từ cuộc chiến tranh gay gắt với kẻ thù xâm lược. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện trong truyện ngắn Rừng xà nu.
Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả tập trung tái hiện hình ảnh một rừng xà nu bên bờ “con sông lớn ở đầu làng” và “nằm trong tầm đại bác của trại lính giặc”: “Làng nằm trong tầm đại bác của trại lính giặc. Kẻ thù bắn thường xuyên, mỗi ngày hai lần hoặc buổi sáng sớm và chiều, hoặc đứng bóng tối và xưa cả, hoặc nửa đêm và đến sáng. Đạn thường rơi vào đồi xà nu gần con sông lớn”.
Cây xà nu gắn liền với dân Tây Nguyên. Trong truyện, mở ra một trận chiến lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man và quân Mỹ - Diệm. Rừng xà nu cũng là một phần của cuộc chiến đó. Từ cách tả tự nhiên, hình ảnh xà nu đã trở thành biểu tượng. Xà nu xuất hiện như một biểu tượng của sự sống, đối đầu với cái chết, sự tồn tại đối mặt với sự hủy diệt. Cách mở đầu của câu chuyện rất súc tích, sắc sảo nhưng vẫn mang đầy uy nghiêm và đặc sắc.
Nhiều lần tác giả nhắc đến hai chữ “xà nu” (rừng xà nu, đồi xà nu, gốc xà nu, cây xà nu, lửa xà nu, khói xà nu, nhựa xà nu..). Xà nu trở thành một phần không thể thiếu của làng Xô Man, của Tây Nguyên và cả Tây Nguyên nói chung. Mỗi đặc điểm của xà nu mà tác giả nhắc đến đều có thể hiểu theo nghĩa bóng, tượng trưng cho con người Tây Nguyên.
Khi tóm lược, Nguyễn Trung Thành nhận ra: “Toàn bộ rừng xà nu hàng vạn cây, không một cây nào không bị tổn thương”. Bằng cách quan sát chi tiết, từng cây xà nu, tác giả đã chứng kiến nỗi đau của chúng: “Có những cây bị chặt đứt nửa thân mình, đổ ầm ầm như một cơn bão. Tại chỗ vết thương, nhựa chảy ra, tràn ngập, thơm ngào ngạt, rực sáng dưới ánh nắng hè gay gắt”. Sau đó “Có những cây con lớn đủ ngang tầm ngực người bị bom đại bác chặt đứt thành đôi. Ở những cây đó, nhựa vẫn ở trong, dầu vẫn lỏng, vết thương không lành được, vẫn rỉ máu ra suốt năm mười ngày sau thì cây mới chết”. Các từ ngữ như vết thương, máu chảy. Chảy máu suốt, chết... là những từ ngữ mô tả nỗi đau của con người. Tác giả đã đưa nỗi đau của con người vào để mô tả nỗi đau của cây và ngược lại.
Bọn giặc đi trong rừng như lũ sư tử mập, chúng đội những “cái mũ đỏ đầy máu”, “lưỡi liềm dính máu”. Làng Xô Man sống trong cảnh bị đè bẹp dữ dội. Mọi người bị kéo đến nhà ăn, dân làng bị chặt đầu, treo cổ, tiếng cười “vui vẻ”, “tàn bạo' của bọn tàn ác, tiếng roi “vun vút”, tiếng đạn “ái ngại”, tiếng gậy sắt đập “rền rĩ' xuống những thân xác...
Nhưng tác giả không để cây xà nu kết thúc trong nỗi đau yên lặng. Nhà văn đã khám phá ra sức sống mạnh mẽ của cây xà nu, một sức sống không ngừng dù có bom đạn: “Trong rừng, hiếm có loài cây phát triển mạnh mẽ như vậy”. Điều này là yếu tố cơ bản giúp cây xà nu vượt qua ranh giới giữa sự sống và cái chết. Sự sống tồn tại ngay giữa sự hủy diệt.
“Gần một cây xà nu mới ngã đã có bốn năm cây con mọc lên”. Tác giả sử dụng phép nói tương phản (ngã - mọc lên; một - bốn năm) để khẳng định một ý chí sống mãnh liệt. Cây xà nu tự đứng lên bằng sức mạnh của mình: cây con mọc lên, hình như mũi tên lao vút lên bầu trời'. Xà nu đẹp một cách hoang dại nhưng cũng rất kiêu hãnh. Xà nu không chỉ tự bảo vệ bản thân mình mà còn bảo vệ sự sống, bảo vệ làng Xô Man: “Trong hai ba năm qua, rừng xà nu mở ngực lớn ra che chở cho làng”. Hình tượng xà nu chứa đựng tinh thần can đảm, một tư thế kiêu căng đứng đầu trong cuộc chiến. Cánh rừng xà nu “mở ngực lớn ra che chở cho làng' tạo ra bức tranh thiên nhiên lớn mạnh, đầy nguồn cảm hứng sử thi. Điều đặc biệt của đoạn văn là việc tác giả đã mô tả rừng xà nu như một sinh vật có linh hồn, hòa nhập với tinh thần bất khuất của con người Tây Nguyên nói chung và làng Xô Man nói riêng.
Khi miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, tác giả sử dụng phép nhân hóa như một biện pháp từ vựng chủ đạo. Ông luôn dùng nỗi đau và vẻ đẹp của con người làm chuẩn mực để nói về xà nu, biến xà nu thành một ẩn dụ cho con người, một biểu tượng của sự kiên cường của Tây Nguyên. Ngược lại, khi miêu tả con người, tác giả thường so sánh với xà nu. Cụ Mết có vóc ngực “cứng như một cây xà nu lớn”, tay “gồ ghề như vỏ cây xà nu”. Cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu.
Các thế hệ con người làng Xô Man tương ứng với các thế hệ cây xà nu. Tnú mạnh mẽ như một cây xà nu đã trưởng thành trong cảnh đau thương, đã phát triển với lòng can đảm và ý chí phi thường, giống như xà nu nảy mầm lên nhanh chóng tiếp nhận ánh sáng mặt trời. Heng là mầm cây xà nu được thế hệ trước truyền dạy tất cả các phẩm chất cần thiết để sẵn sàng thay thế trong cuộc chiến cam go có thể kéo dài “năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa”.
Trong sự tiếp nối không ngừng, hình tượng dân làng Xô Man đã được thể hiện từ rừng cây xà nu, cây và con người tương phản, tỏa sáng, tôn vinh lẫn nhau. Cây xà nu yêu ánh sáng như dân làng yêu tự do. Cây chịu đau thương như dân làng trải qua nhiều mất mát. Nếu cây xà nu có sức sống mãnh liệt, bất tử thì con người trước bao đau thương cũng không bao giờ gục ngã. Không có sức mạnh nào có thể hủy diệt được xà nu cũng như dân làng Xô Man kiên cường đứng vững trước những thử thách để chiến đấu và chiến thắng.
Để khắc họa hình tượng rừng xà nu, ngoài việc sử dụng phép nhân hóa, tác giả còn lấy cảm hứng từ sử thi với nhiều kỹ thuật thường thấy trong các truyện anh hùng. Trong truyện, tác giả không ít hơn 20 lần đề cập đến xà nu. Sự sử thi của truyện sẽ không thể trở thành giọng điệu chính nếu thiếu hình tượng xà nu được khám phá từ nhiều khía cạnh, được lặp lại nhiều lần như vậy. Xà nu xuất hiện ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống, trong cuộc chiến của con người. Lửa xà nu làm nấu cơm. Đèn xà nu soi cho Dít băm gạo, soi đường cho dân làng vào rừng lấy gỗ. Gỗ xà nu được dùng làm bảng để học viết. Mười ngón tay của Tnú bị tẩm dầu xà nu đốt cháy như mười cụm đuốc lớn, làm cho “cả rừng xà nu rúng động”. Xà nu tham gia vào cuộc sống, xà nu tham gia vào những sự kiện quan trọng của con người. Xà nu mang hơi hướng sử thi và tinh thần của Tây Nguyên rất rõ ràng. Những tầng nghĩa khác nhau được người đọc nhận thức từ hình tượng rừng xà nu nhờ cách viết kể chuyện, mô tả, gợi liên tưởng, tưởng tượng của tác giả.
Câu văn khai mạc được lặp lại ở cuối tác phẩm (đứng trên đỉnh đồi xà nu đó nhìn ra phạm vi vô cùng, chỉ thấy những đỉnh xà nu liên tục nối tiếp đến tận bờ trời) tạo nên bức tranh rừng xà nu vĩ đại, kiên cường và bất khuất, vẻ bất khuất, kiêu hãnh của con người Tây Nguyên đặc biệt và con người Việt Nam nói chung trong cuộc chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của người đọc luôn là hình ảnh bao la của rừng xà nu kiêu hãnh ấy.