Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
'Tây Tiến' của Quang Dũng là một trong những bài thơ sáng tác về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Bài thơ này đã thể hiện sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và làm nên những tác động sâu sắc trong lòng độc giả từ khi ra đời. Tác phẩm này là sự kết hợp hoàn hảo giữa hiện thực và tình cảm lãng mạn khi mô tả về những người lính dũng cảm bảo vệ đất nước. Thông qua hình ảnh của người lính và thiên nhiên, Quang Dũng đã gửi gắm những ý nghĩa sâu sắc về lòng yêu nước và tình đoàn kết dân tộc.
Bài thơ 'Tây Tiến' là một biểu tượng về sự kiên trì, quyết tâm và tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Qua từng dòng thơ, tác giả đã tạo ra một bức tranh sống động về cuộc sống và chiến đấu của những người lính Tây Tiến. Sự giao thoa giữa hiện thực và lãng mạn, giữa con người và thiên nhiên đã tạo nên một tác phẩm văn học đầy ý nghĩa và sâu sắc, để lại dấu ấn không thể phai nhạt trong lòng người đọc.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Tây Tiến là kết quả của sức mạnh và tài năng của Quang Dũng, cũng như của văn học kháng chiến Việt Nam, đặc biệt là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Những học sinh trí thức, mang bút mực xanh, đi ra chiến trường với tình yêu dành cho Tổ quốc, quê hương, và hòa bình dân tộc, mang trái tim hào hùng, anh hùng nhưng vẫn kết hợp với sự lãng mạn và tự hào của tuổi trẻ trí thức Hà Nội. Quang Dũng đã tài tình tái hiện điều này trong bài thơ Tây Tiến với một phong cách lãng mạn, hồn hậu và tài hoa. Với 14 câu thơ đầu, ông nhắm vào trái tim của người lính cũng như của chính mình, nỗi nhớ về Tây Bắc và vẻ đẹp vượt lên gian khổ của người lính Tây Tiến.
Quang Dũng sinh ra ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài, là nhạc sĩ và họa sĩ nổi tiếng, mang trong mình tinh thần thơ ca. Ông cũng là một người lính xuất sắc, tham gia nhiều trận đánh khác nhau, vì vậy những bài thơ về người lính của ông rất chân thực, sinh động, mạnh mẽ, và lãng mạn. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, chủ yếu là các thanh niên Hà Nội, với nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt-Lào và đánh bại Pháp. Hoạt động từ Sơn La, Hòa Bình, qua Sầm Nưa (Lào) rồi đến phía Tây Thanh Hóa, họ phải trải qua nhiều chặng đường gian khổ. Quang Dũng sáng tác Tây Tiến vào cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, nhớ lại những ngày tháng trong đoàn binh Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một tựa đề ngắn gọn nhưng vẫn thể hiện rõ cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ. Cảm hứng cho bài thơ là tinh thần lãng mạn và tinh thần anh hùng.
Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội được thể hiện trong 14 câu thơ đầu.
Hai dòng đầu bài thơ 'Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/ Nhớ về núi rừng nhớ chơi vơi' gợi lên mong mỏi, nhớ nhung về một thời đã qua, về một miền đất xa xăm. Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà dường như đã trở thành một người thân. Quang Dũng đã gọi tên “Sông Mã” ngay từ những dòng thơ đầu tiên, nơi đó là biểu tượng của miền núi Tây Bắc, là nhân chứng lịch sử chứng kiến biết bao đau thương, gian khổ, niềm vui, nỗi buồn của đồng bào, chiến sĩ trong thời gian chiến đấu. Nỗi nhớ của Quang Dũng đầu tiên là đoàn quân Tây Tiến thân yêu, sau đó lại hướng về Tây Bắc với dòng sông Mã Vương đầy kỉ niệm. Ngoài ra, hình ảnh núi rừng xa lạ cũng là một phần của nỗi nhớ! Với những người lính xa quê, hình ảnh núi rừng Tây Bắc là xa lạ, Quang Dũng hai lần nhắc đến từ 'nhớ' để nhấn mạnh sự nhớ rất riêng của mình. Đó là cảm giác cô đơn, thất vọng, bâng khuâng trong một nỗi nhớ xa xăm, bởi Tây Bắc xa lắm, Tây Bắc đầy sương mù, mây quanh núi trống trải, vắng vẻ nhưng rất hào hùng.
Nếu 2 câu thơ đầu là về nỗi nhớ, thì ở 12 câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ đó đã được biểu hiện qua nhiều ký ức ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ Sài Khao, Mường Lát trong 'Sài Khao sương che đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm'. Hai địa danh này gợi lên những ký ức về các vùng đất mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, từ đó trải ra những không gian rộng lớn khác nhau trong bài thơ. Thơ trải dài khắp không gian, mỗi nơi mà Quang Dũng bước qua, tâm hồn ông đều thấy yêu thương và lưu luyến. Mỗi địa danh đại diện cho núi rừng Tây Bắc đã trở thành một kí ức không thể phai mờ khắc sâu trong tâm trí của nhà thơ.
Hình ảnh 'sương mù phủ đoàn quân mỏi' gợi lên hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về Mường Lát trong sương mờ của núi rừng Tây Bắc, gợi vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng và cả sự mệt mỏi của người lính. Cảm giác 'mỏi mệt' vẫn còn như mới trong tâm hồn của Quang Dũng, chứng tỏ nỗi nhớ của ông, bởi nỗi nhớ càng nhỏ thì nỗi nhớ càng da diết. Càng già, tôi càng nhớ 'mỏi mệt' hành quân! 'Đêm Mường Lát hoa về', hoa ở đây có thể hiểu là muôn ngàn đóa hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác hơn, hoa là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm như hoa lửa trong những đêm hành quân đen tối lên Mường Lát. Hình ảnh đuốc hoa vừa gợi sự lãng mạn vừa hào hùng của một thời Tây Tiến.
Sau những ngày hành quân gian khổ, Quang Dũng viết về sự hy sinh của người lính Tây Tiến.
'Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!'
Câu gọi là 'đồng chí' biểu thị tình cảm thân thiết, những câu 'không bước tới' và 'quên đời' đều là cách nói giảm nhẹ về cái chết, tức là để xoa dịu nỗi đau mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự hi sinh cao cả của người lính. Tư thế hi sinh 'súng ngửi trời' thể hiện tinh thần dũng cảm, gan dạ và dũng cảm của người lính. Đoạn thơ cũng thể hiện cái nhìn tỉnh táo, dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh nhưng cũng không giấu nỗi đau mất mát.
Tiếp theo là nỗi nhớ về những ký ức khó nhưng lãng mạn:
'Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi'
Cấu trúc thơ hiện đại độc đáo, sử dụng động từ mạnh trong câu 'Chiều chiều thác oai linh gầm thét' cho thấy sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Bên cạnh đó, không chỉ dừng lại ở vẻ hoang sơ hùng vĩ mà núi rừng nơi đây còn ẩn chứa những nguy hiểm khó lường. Đắm chìm trong ký ức nhưng nhà thơ chợt bừng tỉnh. Nỗi nhớ được thể hiện tha thiết, cồn cào, nhớ cả những bát cơm đầy, hương khói lửa, cơm nếp ấm tình quân dân, đồng thời cũng gợi về một thời kháng chiến vừa oanh liệt, vất vả và lãng mạn.