Đề Bài: Phân Tích Khổ 3, 4 và 5 trong Bài Thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên
I. Dàn Ý
II. Bài Văn Mẫu
Phân Tích Khổ 3, 4 và 5 trong Bài Thơ Ông Đồ
I. Bài Viết Phân Tích Khổ 3, 4 và 5 của Bài Thơ Ông Đồ
1. Giới Thiệu
Khám Phá Tổng Quan về Tác Giả Vũ Đình Liên và 3 Khổ Thơ Trong Bài Thơ 'Ông Đồ'
2. Phần Chính
a. Khám Phá Khổ Thơ Thứ 3: Bức Tranh Đầy Xót Xa Của Nét Đẹp Văn Hóa Mai Một
- Thời Cuộc Biến Động, Vị Thế Của Nho Học và Các Nhà Nho Cũng Đã Thay Đổi
b. Khám Phá Khổ Thơ Thứ 4: Hình Ảnh Ông Đồ Lạc Lõng Giữa Hiện Thực
- Trong Tình Trạng Đáng Thương Của Ông Đồ
- Hình Ảnh Ông Đồ Trở Nên Mờ Nhạt và Vô Hình
- Cô Đơn Của Ông Đồ Hòa Quyện Với Thiên Nhiên và Cảnh Vật
- 'Lá Vàng Rơi Trên Giấy' Mang Ý Nghĩa Biểu Tượng Sâu Sắc
=> Kết Nối Với Sự Lụi Tàn Của Nho Học
c. Khám Phá Khổ Thơ Thứ 5: Nỗi Xót Thương Của Nhà Thơ
- Hoa Đào Vẫn Nở Rộ, Nhưng Nho Học Đã Chấm Dứt, Ông Đồ Cũng Không Còn
- Câu Hỏi Cuối Cùng Nổi Lên, Thể Hiện Tấm Lòng Xót Thương Vô Tận Cho Giá Trị Văn Hóa Truyền Thống Tốt Đẹp Của Dân Tộc và Những Người Gìn Giữ Nó.
d. Đánh Giá Mặt Nghệ Thuật:
Thể Thơ Ngũ Ngôn Gieo Vần Chân Khéo Léo, Lời Thơ Giản Dị, Kết Cấu
3. Phần Kết
Khẳng Định Lại Giá Trị Của Đoạn Thơ và Tạo Liên Kết
II. Mẫu Bài Văn Phân Tích Khổ 3, 4 và 5 của Bài Thơ Ông Đồ
Vũ Đình Liên, một nhà thơ thuộc thế hệ đầu tiên của phong trào thơ mới, để lại những tác phẩm đầy ý nghĩa. Trong đó, bài thơ 'Ông Đồ' nổi bật với sự hoài cổ và xót thương về nét đẹp truyền thống đang dần mất của dân tộc. Khổ thơ 3, 4 và 5 là những điểm nhấn đặc sắc thể hiện rõ thông điệp này.
'Mỗi năm mỗi khác
...
Hồn ở đâu bây giờ?'
'Ông Đồ' ra đời khi Nho học suy thoái, nhiều nhà nho đang trải qua thời kỳ khó khăn. Tinh hoa nho giáo ngày xưa giờ đã tan rã. Những khổ thơ đầu tiên, nhà thơ kể về quá khứ huy hoàng, nhưng đến ba khổ thơ này, ông đã tô điểm cho bức tranh hiện tại, một bức tranh đầy xót xa và cay đắng về thực tế:
'Mỗi năm mỗi hư vọng
Những bút mực nay đâu
Tâm trạng nhạt nhòa buồn
Nhòa mực trong nghiên lụa'
Thời cuộc thay đổi, xã hội biến động, vị thế của Nho học và các nhà nho giảm sút. Người vẫn còn nhưng hình ảnh mất mát. Xuân về, hoa đào nở rộ nhưng thời gian trôi đi im lặng, người xin chữ dần trở nên hiếm hoi. Cảnh đẹp tấp nập ngày xưa giờ chỉ còn là ký ức, sự tôn trọng và lời khen ngợi cũng nhạt phai theo thời gian. Chỉ còn lại là bầu không khí êm đềm đến thấu lòng. Nỗi xót xa lan tỏa, nhà thơ thốt lên câu hỏi 'Bút mực nay đâu'. Đó là lời thách thức tĩnh lặng, cũng là tiếng thở dài đau lòng của nhà thơ.
Nỗi xót xa ám ảnh không gian, thấm vào giấy mực. 'Giấy nhạt' được nhắc nhở trong bài thơ là loại giấy thường dùng để viết chữ Nho. 'Mực' là vật liệu viết chữ, ẩn chứa trong nghiên. Nhà thơ tài tình sử dụng hình ảnh biểu tượng. Giấy từng đỏ rực rỡ, giờ trở nên mờ nhạt, yếu đuối. Mực xưa đậm nét mỗi nét chữ, giờ trở thành một dòng nước yên bình. Những vật thường ngày, trước sự hiện thực khắc nghiệt cũng mang theo tâm huyết 'buồn', 'sầu'. Nỗi đau chia sẻ, lòng trắc ẩn mà cảm động đến tận tâm hồn.
Hình ảnh ông đồ hiện lên vô cùng cô đơn:
'Ông Đồ ngồi lặng lẽ
Chẳng ai hay đâu đây
Lá vàng rơi nhẹ nhàng
Mưa bụi bay ngoài kia'
Những người từng đứng ở vị trí cao quý trong xã hội vẫn giữ nguyên đó, tiếp tục công việc của mình mà không hề thay đổi. Nhưng thời cuộc biến động, ông đồ bị đẩy vào hoàn cảnh thương tâm. Con người vẫn hiện diện, nhưng tâm hồn không còn nguyên vẹn. Dòng người vội vã đi lại, không một ai muốn quay đầu nhìn lại, vô tình đến đau lòng. Hình ảnh của ông đồ trở nên mờ nhạt, vô hình nhưng lại 'ngồi lặng lẽ', cô đơn, lạc lõng đến thấu đáo.
Khung cảnh ông đồ ngồi chờ người đến xin chữ được tái hiện dưới bút của Vũ Đình Liên vô cùng trống trải, lẻ loi. Sự cô đơn của ông đồ hòa quyện vào cả thiên nhiên, cảnh vật.
'Lá vàng rơi nhẹ nhàng
Mưa bụi bay ngoài kia'
Hình ảnh 'Chiếc lá vàng rơi trên tờ giấy' là hình ảnh chân thực nhưng mang theo ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là bức tranh của sự yên bình đến mức lá vàng nhẹ nhàng rơi, lưu lại trên tờ giấy đỏ mà không một ai hay biết.
Ngay lúc đó, 'chiếc lá vàng' cũng là biểu tượng của mùa thu, sự úa tàn và khô héo. Mùa xuân trở nên tả tơi, thiếu sức sống. Liệu đó có phải là sự tưởng tượng về nền nho học đang mờ nhạt. Nhà thơ không thể ngăn cản dòng nước mắt bi ai, lạnh lẽo như cơn mưa bụi ngoài trời.
Kết thúc bài thơ, Vũ Đình Liên bày tỏ tình cảm xót xa không hạn với ông đồ, với nét đẹp văn hóa đã phai mờ của dân tộc:
'Năm nay hoa đào nở
Không thấy bóng ông đồ xưa
Những người tri kỷ xưa
Hồn đâu bây giờ'
Ở trên, chỉ còn lại hình bóng mất mát, đến đây cả khung cảnh và người đều tan biến. Hoa đào vẫn bung tỏa, nhưng nho học đã khuất phục, ông đồ cũng biến mất. Ông đồ đã hoàn toàn rời đi khỏi bức tranh. Đó có phải là do sự thay đổi của tâm hồn con người, hay thời gian đã làm nhòa đi hay nét đẹp truyền thống đã bị lãng quên?
Câu hỏi cuối cùng vang lên, thể hiện tâm trạng xót thương không tận về giá trị văn hóa truyền thống tươi đẹp của dân tộc và những người đã cống hiến hết mình để bảo tồn nét đẹp ấy.
Có thể khẳng định, Vũ Đình Liên đã tạo nên sự kết hợp hoàn hảo giữa giá trị nội dung và nghệ thuật. Thể thơ ngũ ngôn chất chứa những cung bậc cảm xúc, lời thơ sâu lắng và gọn gàng. Đặc biệt, cấu trúc đầu cuối tạo nên sự thống nhất và chặt chẽ. Tất cả hòa quyện để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc. Qua đó, nhà thơ truyền đạt tình cảm xót thương vô hạn đối với ông đồ và tiếc nuối cho sự mai một của văn hóa dân tộc. Đồng thời, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Vũ Đình Liên.
3 khổ thơ đã đóng góp một cách sâu sắc để làm nổi bật giá trị của bài thơ, khơi gợi ký ức về một thời kỳ huy hoàng của Nho học. Chúng cũng nhắc nhở chúng ta hãy trân trọng và giữ gìn những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.