Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Hàn Mặc Tử
- Giới thiệu chung về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
- Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
a. Khổ 1: Cảnh thôn Vĩ và hi vọng hạnh phúc của thi nhân
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”
- Hai cách hiểu:
+ Đó là lời của người con gái thôn Vĩ Dạ với giọng hờn giận, trách móc nhẹ nhàng. Nhân vật “anh” chính là Hàn Mặc Tử.
+ Có thể hiểu đây là lời của Hàn Mặc Tử, Hàn Mặc Tử phân thân và tự hỏi chính mình.
=> Câu thơ mở đầu có chức năng như lời dẫn dắt, giới thiệu người đọc đến với thôn Vĩ của người con gái mà thi nhân thương nhớ.
“Nhìn nắng hang cau nắng mới lên”
- “Nắng mới lên”: nắng đầu tiên của ngày mới, ấm áp, trong trẻo, tinh khiết.
- “Nắng hàng cau”: cây cau là cây cao nhất trong vườn, được đón nhận ánh nắng đầu tiên
=> Nắng mới buổi sớm, trong trẻo, tinh khôi
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
- “Mướt”: ánh lên vẻ mượt mà, óng ả, tràn đầy nhựa sống
- “Xanh như ngọc”: màu xanh sáng ngời, long lanh
=> Cả vưỡn Vĩ như được tắm gội bởi sương đêm, đang chìm trong giấc ngủ thì được đánh thức và bừng lên trong ánh nắng hồng ban mai. Nắng mai rót vào khu vườn, cứ đầy dần lên theo từng đốt cau. Đến khi ngập tràn , thì nó biến cả khu vườn thành một đảo ngọc, vừa thanh khiết, vừa cao sang.
=> Bức tranh thôn Mĩ hiện lên thật đẹp, thơ mộng.
- Sự xuất hiện của con người thôn Vĩ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
- “Mặt chữ điền”: Theo quan niệm người Huế, mặt chữ điền là khuôn mặt đẹp, phúc hậu.
- “Lá trúc che ngang”: gợi vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng của người con gái Huế.
=> Hình ảnh thơ được miêu tả theo hướng cách điệu hóa, chỉ gợi lên vẻ đẹp của con người, không chỉ rõ là ai cụ thể. Ở đây, thiên nhiên và con người hòa hợp trong vẻ đẹp kín đáo, trữ tình.
=> Niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người thiếu nữ, hy vọng lóe sáng về tình yêu, hạnh phúc.
3. Kết bài
- Khái quá lại vấn đề
Mẫu
Bài tham khảo số 1
Nếu loài người không còn khao khát
Và những nhà thơ không có ai yêu
Người - Thi sĩ - cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện hữu ở đây, chờ đợi
(Tràn Ninh Hổ)
Hàn Mặc Tử - nhà thơ của những mối tình 'khuấy' mãi không thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thuỷ cuối cùng của đời mình. Trong đời thơ, đời người quá ngắn, Hàn say mê bốn thiếu nữ (Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mai Đình, Ngọc Sương). Hoàng Cúc, một thiếu nữ ở thôn Vĩ Dạ là mối tình đầu của Tử, hai người quen nhau ở Quy Nhơn, Tử là nhân viên Sở Đạc điền, còn cha Hoàng Cúc là chủ sở. Hàn thầm yêu Hoàng Cúc từ năm 1936, nhưng vì rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ và bạn bè... Năm 1939 biết Tử mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhở, thúc giục Hoàng Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh Huế và một số dòng hỏi thăm mà không kí tên. Hàn hiểu lầm đó là cảnh 'Bến Vĩ Dạ vào buổi hừng đông hay đêm trăng ?“. Để tạ lòng cố nhân, Tử gửi tặng Hoàng Cúc bài Đây là thôn Vĩ Dạ. Khúc thơ đầu của bài thơ là khúc thơ hấp dẫn nhất:
Sao anh không trở về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng câu, nắng mới lên
Vườn của ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che lấp cả mặt chữa điền
Cảm nhận Đây là thôn Vĩ Dạ phải kết nối với mối tình đầu của Tử và Hoàng Cúc. Nhưng lâu nay, bị ám ảnh bởi yếu tố ngoài văn bản ngôn ngữ - đặc biệt là quan điểm 'Hoàng Cúc chỉ tặng cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh cô mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh (...), và trách Hàn Mặc Tử vì sao lâu nay không trở về thăm thôn Vĩ Dạ thì nhiều người đã hiểu câu thơ mở đầu là một lời trách móc nhẹ nhàng, nhè nhẹ - thực sự là giọng hờn dịu ngọt của các cô gái Huế, trách mà như là mời gọi khách về thăm thôn Vĩ. Những ý kiến đó có vẻ như trôi nổi ngoài văn bản. Dựa vào cái gì mà nói: 'Sao anh không trở về chơi thôn Vĩ ?' là câu hỏi trách móc từ một cô gái thôn quê. Hơn nữa, như Hoàng Cúc khẳng định: sau bức ảnh, không có lời trách móc nào. Làm sao có thể trách một người đang từng giờ, từng phút chờ đợi tử thần đến để mang đi? Thơ trữ tình là thơ hướng nội. Thơ Hàn Mặc Tử càng là thơ hướng nội. Câu hỏi 'Sao anh không trở về chơi thôn Vĩ ?' có thể là câu tự nghi của chính Tử. 'Anh' ở đây là đại từ nhân xưng dùng ở ngôi thứ nhất, không phải ngôi thứ hai. Một câu hỏi trữ tình. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình vì sao lại không trở về thôn Vĩ. Dòng thơ đượm buồn, có chút hối hận. Toàn bài Đây là thôn Vĩ Dạ có thể là để trả lời câu hỏi đã đặt ra ở dòng đầu của bài thơ (có lẽ nên đặt dấu chấm hỏi ở cuối dòng thứ hai thì hợp lý hơn).
Trước khi sáng tác bài Đây thôn Vĩ Dạ này, Hàn Mặc Tử đã từng đi qua khu vườn nhà Hoàng Cúc ở bến Vĩ Dạ, nhưng chỉ dừng lại ở cổng mà ngắm nhìn. Ấn tượng đầu tiên còn đọng lại trong tâm trí của độc giả khi đọc khúc thơ đầu là cảnh 'bến Vĩ Dạ lúc hừng đông'. Qua cảnh này, Tử muốn truyền đạt những tâm tư kín đáo gì đó? Giữa muôn vàn cây cỏ, lá của Vĩ Dạ, nhà thơ nhắc đến hàng câu tắm nắng bình minh. Bao đời nay với người Việt Nam, cây câu vẫn gợi mối tình đôi lứa, qua biện pháp nghệ thuật tinh tế, nhà thơ đã nhấn mạnh ý 'nắng mới lên', 'xanh như ngọc''. Nắng bình minh (nắng mới lên) đẹp thì đẹp, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng qua nhanh như ''hơi rượu say' (cho nên ngay sau cảnh hừng đông là cảnh bến sông đêm trăng buồn đến nao lòng).
'Nắng hàng câu nắng mới lên” đi đôi với 'Vườn của ai mướt quá xanh như ngọc'. Đó cũng là vườn mang hương vị ngọt ngào của ca dao, nhưng vườn mà Tử miêu tả không phải là 'vườn hồng', cũng không phải là vườn có 'bóng hoàng hôn', mà là vườn xanh như ngọc. Phép so sánh khá mới lạ này khiến cho độc giả có thể suy nghĩ đến 'vườn của em' là vườn với cành vàng lá ngọc. Đi vào khu vườn ấy không hề dễ dàng. Dòng thơ thứ tư nói rõ thêm ý tưởng ấy :
'Lá trúc che lấp cả mặt chữ điền'.
Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ tính phúc hậu của khu vườn Vĩ Dạ. Khuôn mặt chữa điền bị lá trúc che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực; Có lẽ nó thực sự trở thành rào cản ngăn cách tình yêu của con người. Nó làm cho 'Gió theo lối gió, mây theo dòng mây'; nó tạo ra 'Dòng nước buồn lây nát đồng nước' ; nó kết lại trong một lời trách:
Ở đây sương khói mờ hình bóng
Ai biết tình yêu này có sâu sắc như thế nào
Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ câu hỏi 'Sao anh không trở về chơi thôn Vĩ? Chỉ tập trung vào việc tận dụng vẻ đẹp lãng mạn của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người đọc thơ sẽ phạm sai lầm là không hiểu hết bi kịch của tình yêu của Tử. Khi Hàn Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ thì cảm xúc của thi nhân với Hoàng Cúc cũng chỉ còn lại trong quá khứ. (Khi ấy Hàn Mặc Tử đã yêu người khác). Hơn nữa, Tử lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bệnh nan y. Khúc thơ đầu nói riêng và cả bài 'Đây thôn Vĩ Dạ' đều nằm trong tâm trạng 'đau buồn' của Hàn Mặc Tử.