Ví dụ
Bài tham khảo 1
“Tràng giang” là một bài thơ nghệ thuật của Huy Cận được chọn từ tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Bài thơ có một câu đề rất sâu sắc: “Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài”. Tác giả đã từng nói: “Tràng giang là một bài thơ về tình yêu và về cảnh sắc, một bài thơ về tâm hồn”, “Tràng giang” là một minh chứng cho vẻ đẹp của tinh thần thơ Huy Cận trước cách mạng: sâu sắc, cổ điển, giàu triết lí, thấm nhuần nỗi buồn nhân sinh “sầu trăm ngả”.
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn trường thiên, gồm 4 khổ thơ tạo thành một bức tranh về tràng giang trong một chiều thu. Đây là khổ thơ thứ hai của “Tràng giang” :
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đây tiếng làng xa vãn chợ chiều,
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót:
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Trong khổ thơ đầu tiên, Huy Cận mô tả cảnh tràng giang vào một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Giọng thơ nhẹ nhàng với vẻ buồn. Không gian nghệ thuật mở rộng về hai bờ sông và bầu trời. Những đoạn cát thưa thớt nhấp nhô “lơ thơ” như kéo dài vô tận. Gió chiều nhẹ nhàng thổi “đìu hiu” gợi lên nỗi buồn sâu sắc. Hai từ “đìu hiu” kích thích ký ức về một thời cổ kính:
“Non Kì quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phi gió thổi đìu hiu mấy gò'.
( Luận phụ ngâm)
Làng xóm hai bên sông, vào buổi chiều tối cũng yên bình. Một chút tiếng ong vang vọng trong khoảnh khắc kết thúc chợ, vắng vẻ, từ một ngôi làng xa vắng vẻ. Sử dụng âm thanh để diễn tả sự yên bình, câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” đã làm nổi bật sự kinh ngạc, nỗi buồn của du khách về sự vắng vẻ, cô đơn của bờ sông tràng giang. Các nhà thơ mới đánh giá cao giá trị âm nhạc trong thơ, áp dụng nghệ thuật phối hợp âm nhạc, hòa âm rất tinh tế, tạo ra những bài thơ giàu nhạc điệu, thú vị khi đọc. Hai câu thơ đầu tiên của đoạn có âm “lơ thơ” và “đìu hiu”, với bài thơ “đầu - gió”, vần chân “hiu - chiều”. Câu thơ của Huy Cận gợi lên nhớ về câu thơ của Xuân Diệu:
'Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang bóng trở chiều...”
( Thơ duyên)
Các từ “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả”; các vần thơ, như vần “nhỏ” với “gió”, vần chân “xiêu” với “chiều”. Những vần thơ “tươi nhạc tươi vần” ấy đã trở thành thơ được nhớ mãi trong lòng hàng triệu người yêu thích văn học.
Trong đoạn thơ của “Tràng giang” của Huy Cận, ta như được đắm chìm vào không gian vũ trụ mênh mông và vô hạn. Buổi chiều đã đến. Ánh nắng từ trên cao chiếu sáng xuống, làm nổi bật những khoảng sâu trên bầu trời, vẻ đẹp của bầu trời thu quê hương chúng ta đã trở thành chủ đề của thi ca dân tộc: “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh); và “Trời cao xanh ngắt - ô kìa...” (Tiếng sáo Thiên Thai); “xanh biếc trời cao, bạc đất bằng” (Xuân Diệu). Thi sĩ Huy Cận không xem bầu trời là cao mà là sâu, “sâu chót vót”:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”
Bầu trời và dòng sông “sóng gợn” là không gian hai chiều, rộng và cao, sâu. Bầu trời cao thăm thẳm, rộng mênh mông in xuống, chiếu sáng xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót” và “sâu thăm thẳm”, nhưng Huy Cận lại cảm nhận là “sâu chót vót” để nhấn mạnh hai yếu tố nhỏ bé: “nắng xuống ” và “trời lên”, cũng như tạo ra ấn tượng về sự bao la, mênh mông của không gian vũ trụ vô tận, đồng thời là nỗi buồn vô hạn trong lòng con người. Du khách cảm thấy nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn trước không gian vô tận của vũ trụ. Dòng sông dường như trở nên dài hơn, bầu trời trở nên rộng lớn hơn, bến đò (hoặc bến bờ?) trở nên cô đơn hơn. xa xôi và buồn bã hơn. Lời đề từ nhà thơ đã viết: “Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài’’, cảm xúc đó được tái hiện trong đoạn thơ số 8, mở ra một thế giới tưởng tượng về vũ trụ vô hạn, trong khi cuộc sống con người thì nhỏ bé, hữu hạn:
‘‘Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Cảnh sắc của Tràng Giang được miêu tả trong đoạn thơ là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn, vẻ đẹp của những dòng sông trên mọi miền đất nước hòa quyện trong tâm hồn của thi sĩ, vẻ đẹp của tình yêu quê hương, tình yêu sông núi. Tình yêu ấy mang theo nỗi buồn về sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận, của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến. “Tràng Giang” đã lưu lại trong lòng người hơn 60 năm. Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng của thi sĩ trước cách mạng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm...”.