Bài thơ Câu cá mùa thu không chỉ miêu tả về mùa thu tươi đẹp trong làng quê Việt Nam mà còn thể hiện tình yêu nước sâu sắc cùng những suy tư về cuộc sống và xã hội. Để hiểu sâu hơn về lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến, mời bạn đọc theo dõi 5 mẫu văn mà Mytour cung cấp dưới đây.
Dàn ý phân tích lòng yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu
a. Giới thiệu
– Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
– Trích đề: Tấm lòng yêu quê hương, đất nước trong bài Thu điếu
b. Nội dung chính:
- Tình yêu quê hương đất nước được thể hiện qua sự gắn bó sâu sắc, tình cảm mạnh mẽ của tác giả với quê hương thông qua việc mô tả một cách sinh động và đặc trưng về khung cảnh mùa thu nông thôn Bắc Bộ.
+ Mùa thu hiện lên với hai hình ảnh đối lập nhưng hài hoà: “ao thu”, “chiếc thuyền câu” nhỏ nhắn; ⇒ thể hiện sự cảm động của tác giả trước vẻ đẹp mùa thu và không gian yên bình đặc biệt của mùa thu.
+ Tiếp tục mô tả về mùa thu với những hình ảnh phong phú và phức tạp, thể hiện sự đặc biệt của mùa thu trong làng quê là “tinh thần dân dã” được thể hiện qua những hình ảnh giản dị.
+ Cảnh mùa thu đẹp đẽ nhưng đầy bình yên và nỗi buồn sâu thẳm ⇒ Không gian mùa thu trong làng quê Việt Nam được mô tả mở ra với sự yên bình và tĩnh lặng, rồi lại chuyển hướng vào sự sâu lắng và thanh tịnh của không gian mùa thu.
- So sánh cách tác giả sử dụng hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ với các tác phẩm và nhà thơ khác.
- Tình yêu nước thể hiện qua nỗi buồn lắng trong tâm hồn của nhà thơ. Trong hoàn cảnh của đất nước và cuộc đời cá nhân, nỗi buồn ấy cũng là biểu hiện của lòng yêu nước cao quý của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nhận ra sự vô vọng của mình trước tình hình đất nước, nhưng vẫn kiên quyết không bao giờ khuất phục trước kẻ thù và từ chối tham gia vào hành động phản bội. Sự không hợp tác với kẻ thù và nỗi đau về tình cảnh của đất nước cũng là biểu hiện của lòng yêu nước sâu sắc của nhà thơ.
⇒ Việc nhắc đến việc câu cá thực ra không phải là nói về việc câu cá, mà là để tạo ra sự yên bình của cảnh vật, tạo nên cảm giác cô đơn và uẩn khúc trong tâm hồn của nhà thơ, là sự chia sẻ về nỗi đau và nỗi buồn về tình cảnh của đất nước.
c. Kết luận
- Đánh giá ý nghĩa của vấn đề.
- Rút ra bài học cho bản thân.
Phân tích lòng yêu nước trong bài Câu cá mùa thu - Mẫu 1
Nguyễn Khuyến được biết đến là 'nhà thơ của làng cảnh Việt Nam'. Mỗi trang thơ của ông đều tái hiện một cách sống động hình ảnh về làng quê bình dị, mộc mạc. Trong sự nghiệp thơ của mình, ông nổi bật với chuỗi ba bài thơ về mùa thu, trong đó bài thơ Câu cá mùa thu là nổi tiếng nhất. Bài thơ không chỉ mô tả về vẻ đẹp mùa thu trong làng quê Việt Nam mà còn thể hiện tình yêu nước sâu sắc và những suy tư về cuộc sống, về thế sự của nhà thơ.
Bức tranh mùa thu trong con mắt của nhà thơ thật sâu lắng, đẹp đẽ và đầy tinh tế. Có lẽ là do tình yêu mãnh liệt mà tác giả dành cho quê hương mà những vần thơ trở nên tươi sáng, trong trẻo như vậy.
'Ao thu trong veo nước lạnh lẽo
Chiếc thuyền câu bé tẻo teo'
Bức tranh mùa thu được mở ra qua hình ảnh của ao thu, chiếc thuyền câu - đều là những hình ảnh đơn giản, quen thuộc trong cuộc sống của làng quê. Ao thu yên bình, nhỏ bé với nước 'trong veo', cùng với hình ảnh người câu cá gợi nét yên bình, thanh thản của một làng quê. Khí trời se lạnh được mô tả qua từ ngữ 'lạnh lẽo' và cách sắp xếp từ 'eo': trong veo, tẻo teo. Chiếc thuyền câu nhỏ bé giữa không gian yên bình tạo nên sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến mô tả bức tranh mùa thu qua những đường nét, sự di chuyển cụ thể của nước, thuyền câu, lá vàng, sóng xanh, tầng mây, đường trúc,... Các con sóng xanh nhẹ nhàng lăn tăn giữa mặt hồ, chiếc lá vàng 'nhẹ nhàng lay đưa' theo sự thổi của gió. Tất cả đều nhẹ nhàng, mềm mại mà cũng đầy uyển chuyển, lôi cuốn. Câu thơ tả cảnh với những hình ảnh đơn giản cùng với nghệ thuật sắp xếp tinh tế làm cho câu thơ không chỉ gợi liên tưởng về khung cảnh của làng quê mà còn thức tỉnh nhiều cảm xúc. Có vẻ như, chúng ta có thể cảm nhận được sự thoải mái của làn gió, sự trầm lặng của mặt hồ yên bình, sự dễ thương của chiếc lá nhỏ xinh. Sự bé nhỏ của chiếc thuyền 'bé tẻo teo' hòa mình trong cảnh yên bình càng làm cho bức tranh mùa thu trở nên đặc biệt hơn bao giờ hết. Màu xanh của sóng, màu vàng của lá, màu xanh của mây trời hoà trong âm thanh nhỏ nhẹ của tiếng lá rơi, của sóng gợn, tiếng cá đớp dưới chân tạo và tiếng lòng của tâm hồn thi sĩ tạo nên một bức tranh mùa thu có đủ sắc, thanh, cảnh, tình trong đó.
'Tầng mây lơ lửng trên trời xanh ngắt
Đường trúc uốn khúc khách lang thang'
Dường như, tác giả đắm chìm, mê mải trong cảnh thiên nhiên của ngày thu mê mải. Sự nhận thức tinh tế của một tâm hồn thi sĩ đã tái hiện một mùa thu trong từ ngữ như thực tế, phong phú và mê đắm. Bức tranh ấy không hấp dẫn người đọc vì sự hoang dại hoặc hùng vĩ, bao la của cảnh sắc thiên nhiên mà nó cuốn hút bởi vẻ đẹp bình dị của cảnh quan làng quê. Tình yêu quê hương như hòa vào dòng chảy của tâm hồn, hòa vào dòng chảy của tự nhiên, của quê nhà. Tình yêu nước hòa cùng tình yêu thiên nhiên, yêu làng quê của đất Việt.
Bức tranh mùa thu qua nét vẽ của Nguyễn Khuyến tuy đẹp nhưng buồn. Không biết có phải vì thu luôn mang dư vị của suy tư hay lòng người đã sẵn mối suy tư, mang trong lòng âm thanh của nỗi buồn lớn lao không? Bởi vì ai đó đã từng nói rằng:
' Cảnh nào cũng có nét buồn
Người buồn thì cảnh cũng buồn theo'
Trong phần kết của bài thơ, hình ảnh người đi câu và công việc đang được minh họa với sự kết thúc:
'Tựa gối ôm câu không thành công
Cá chẳng đớp động dưới bèo xanh'
Người đi câu ngồi 'tựa gối ôm cần' trầm lặng, suy tư có lẽ là hình ảnh của chính tác giả. Lời thơ chứa đựng tâm sự thầm kín của người luôn lo lắng cho quê hương, đất nước. Lời thơ thấm đẫm suy tư về trách nhiệm của tác giả đối với quê hương, đất nước, trước tình cảnh loạn lạc, không an của đất nước, Nguyễn Khuyến không thể phớt lờ với thú vui của mình. Do đó, trong một số tác phẩm khác của mình, ông cũng đã bày tỏ:
'Áo xiêm nghĩ lại cảm thấy xấu hổ
Xuân về ngày loạn càng mơ mộng'
Mượn tiếng cuốc kêu để tỏ lòng:
'Có lẽ tiếc về mùa xuân mà đứng đây gọi tên
Hay là nhớ quê hương vẫn nằm trong giấc mơ'
Trong tình cảnh nhân dân lầm than, nỗi đau mất nước không thể nào nguôi trong lòng nhà thơ, lo lắng cho vận mệnh dân tộc và ý thức trách nhiệm với đất nước không bao giờ giảm bớt. Bài thơ về mùa thu, ngập tràn lòng yêu nước của một nhà văn giàu tình cảm, trung thành với cội nguồn quê hương. 'Thu điếu' với tất cả vẻ đẹp của nghệ thuật và nội dung đã mang lại cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về tình người, tình đời.
Bàn luận về tình yêu nước trong bài thơ Câu cá mùa thu - Mẫu 2
Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một nhà tri thức sâu rộng, mang trong mình phẩm chất cao quý và lòng yêu nước sâu sắc, nhưng lại cảm thấy bất lực trước hoàn cảnh. Với những tác phẩm thơ giản dị, tận hưởng vẻ đẹp của cảnh vật và cuộc sống của người dân Bắc Bộ, Nguyễn Khuyến được coi là 'nhà thơ của dân làng Việt Nam'. Bài thơ Câu cá mùa thu (thu điếu) là một tác phẩm nổi bật của ông trong thời gian ông sống ẩn dật ở quê nhà.
Nguyễn Khuyến là một người có phẩm hạnh thanh cao, dù đã từng làm quan nhưng được biết đến với tính ngay thẳng, liêm chính. Nhiều câu chuyện truyền miệng kể về cuộc sống và mối quan hệ mật thiết của Nguyễn Khuyến với nhân dân. Ông có tâm hồn rộng lớn, phong phú cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Nguyễn Khuyến không viết nhiều về mùa xuân mà lại có tình cảm đặc biệt với mùa thu. Có lẽ vì lòng bất mãn với tình hình xã hội, muốn tìm một nơi để tâm hồn an trú, mùa thu là sự lựa chọn tự nhiên của ông.
Mùa thu là thời điểm của sự phai nhạt, phù hợp với tâm trạng của Nguyễn Khuyến. Bình yên của cảnh thu, tình thu sâu nặng đều gợi lên tinh thần cổ xưa của ngàn năm trước. Nguyễn Khuyến, với sự nhạy bén của một người thấu hiểu ruộng đồng, không cần phải nói nhiều mà đã hiểu rõ tinh thần tinh tế ấy:
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng xanh nhẹ nhàng theo hơi gợn,
Lá vàng khe khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trên trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu, không sao,
Cá dưới bèo chẳng động dậy.
Góc nhìn của thi nhân về cảnh mùa thu: Bắt đầu từ hình ảnh chiếc thuyền câu trên ao thu, qua sơn biếc, lá vàng → nhìn lên bầu trời cao → quan sát xung quanh thấy ngõ trúc uốn lượn → quay trở lại thuyền câu ban đầu, ao thu.
Cảnh mùa thu được nhìn từ gần đến xa, từ thấp đến cao, sau đó từ cao, xa trở lại gần: chiêm ngưỡng mọi phương hướng của không gian thu để thấu hiểu toàn bộ vẻ đẹp của cảnh sắc mùa thu.
Bức tranh về cảnh mùa thu hiện ra với những đặc điểm đặc trưng của nó. Cảnh thu vừa trong trẻo vừa yên bình. Trong trẻo với mặt nước trong veo, sóng biếc, bầu trời xanh ngắt. Đó là một bức tranh thu cổ điển với đề tài, kỹ thuật thơ quen thuộc (thu thuỷ, thu thiên) nhưng rất gần gũi, giản dị. Yên bình với khung cảnh hẻo lánh, không có ai. Âm thanh mơ hồ làm cho không gian trở nên hẻo lánh hơn (cá dưới bèo chẳng động dậy). Các chuyển động rất nhẹ nhàng, nhưng đủ để tạo ra sự yên bình của cảnh vật.
Bức tranh về mùa thu hài hoà, cân đối về màu sắc, hình khối và đường nét. Màu sắc hiện lên với gam màu chính là màu xanh của mùa thu; chút vàng của lá, màu trắng của mây làm cho bức tranh thêm phong phú.
Đường nét, hình khối cũng được sắp xếp, bố trí một cách tinh tế với 'ao thu nhỏ', 'chiếc thuyền câu'. Cảnh vật và nhân vật đều nhỏ bé. Đường nét mảnh mai, tinh tế với đường uốn lượn của ngõ trúc, sóng.
Cảnh mùa thu đẹp, buồn, tĩnh lặng, dân dã, thanh sơ, gần gũi, rất tiêu biểu cho mùa thu của làng quê Bắc Bộ. Có lẽ nhà thơ đã quá kiệm lời khi nói quá ít về cảnh thu tuyệt đẹp và tĩnh lặng như tờ ấy. Ông như sợ nếu chạm khẽ hay khẽ rung cũng có thể làm đổ vỡ bức tranh tuyệt vời hiếm gặp ấy. Như một bức tranh thủy mặc đơn sơ mà ấn tượng, cảnh thu lập tức nằm gọn trong tâm hồn người đọc, ẩn náu để rồi lan tỏa miên man.
Tình thu hòa quyện trong trời xanh nước biếc: tác giả cách cảm nhận cảnh thu hết sức tinh tế bằng một tâm hồn thuần khiết của người gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước. Ông nâng niu tất cả, giữ gìn tất cả với những vẻ đẹp đáng quý của nó. Mọi thứ xa hoa đều bị gạt bỏ, chỉ còn lại đây chất đơn sơ, mộc mạc mà thắm đượm nghĩa tình.
Bức tranh mùa thu tĩnh lặng, u buồn cũng là tâm trạng về thời thế đầy uẩn khúc của tác giả. Ông chọn vần “eo”, một “tử vận” vốn rất oái oăm, khó làm để biểu đạt cảnh vật. Với vần “eo” gây cấn ấy, không gian càng trở nên vắng lặng, nhỏ dần, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc: veo-teo-tèo-teo-beo.
Từ “vèo” biểu thị của dòng thời gian đang trôi nhanh, rất nhanh. Và như thế, cuộc đời, thế cuộc cũng đổi thay nhanh chóng. Thoáng chốc, đời người đã bước sang tuổi xế chiều. biết bao ước muốn, khát vọng chưa được hoàn thành. Người nho sĩ với khát vọng kinh bang tế thế, trị nước bình thiên hạ, muốn cứu đời, làm đổi thay thời thế nhưng giờ nhìn lại đã thấy xa vời quá đỗi, bất lực nhìn dòng thời gian trôi đi.
Tựa đề bài thơ gây một sự chú ý đặc biệt. Câu cá mùa thu mà không chú ý đến chuyện câu cá, chỉ quan sát thiên nhiên, lắng nghe, hoà mình với thiên nhiên. Chủ đề trữ tình xuất hiện trong tư thế ngồi bất động “tựa gối buông cần”. Đó là tư thế thu mình lại, không phải để chờ đợi mà là để suy tu. Cõi lòng nhà thơ đang tĩnh lặng tuyệt đối.
Bài thơ kết thúc trong cái động nhỏ nhắn, tiếng cá “cá đâu đớp động dưới chân bèo” làm người đọc giật mình, mất phương hướng như cái giật mình thảng thốt, ngơ ngác kiếm tìm.
Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của tâm hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước. Mặc ở quê nhà, vẫn cảm thấy lạc lõng, cô đơn trước hiện thực, không thực hiện được chí nguyện, không thể thổ lộ nỗi lòng sâu thẳm đó cùng ai. Chỉ có đất trời mới hiểu, thấu hiểu tấm lòng yêu nước sâu sắc của Nguyễn Khuyến.
Câu cá mùa thu thành công với ngôn ngữ giản dị, trong sáng, biểu cảm sâu sắc. Miêu tả cảnh vật tinh tế, sử dụng từ ngữ độc đáo, kết hợp với bút pháp thủy mặc và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh. Mùa thu câu cá thật xứng đáng là một tuyệt phẩm đặc sắc của làng thơ Việt Nam.
Mùa thu câu cá thể hiện sự nhạy cảm và tinh tế trong miêu tả cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ của Nguyễn Khuyến, đồng thời thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, và tâm trạng thời thế của tác giả.
Nghị luận lòng yêu nước trong bài Câu cá mùa thu - Mẫu 3
Yêu đất nước là yêu tinh thần chống lại kẻ thù, như cách mà Cộng sản luôn khẳng định. Nếu không, chúng ta sẽ đánh mất đất nước vào tay kẻ địch đang âm thầm tiến vào từ biên giới, cướp đoạt từng phần đất ven biển. Chính quyền Việt Nam Cộng sản cũng đã vì tinh thần xã hội chủ nghĩa mà không ngần ngại hiến dâng những miếng đất quý của tổ tiên.
Yêu đất nước là yêu những giá trị văn hóa, lịch sử của Việt Nam:
Sáng sớm se lạnh trong lòng Hà Nội. Những con phố dài quyện lấy sương mù.
(Nguyễn Đình Thi)
Yêu từ mùi trầu thơm nồng của mẹ: Xin mẹ cứ nhai trầu / Cho buổi chiều bình yên (Thanh Thảo). Vì vậy, đất nước Việt Nam mãi mãi thuộc về người Việt Nam. Nguyễn Khuyến (1835 –1909) là một ví dụ điển hình cho tình yêu đất nước này.
Yêu từ những cánh bèo trôi trên mặt ao trong cảnh đẹp mùa thu, Nguyễn Khuyến đã từ bỏ sự nghiệp quan lại để trở về cùng nhân dân, sống chìm đắm trong tự nhiên của quê hương. Trở về vào mùa thu của cuộc đời, Nguyễn Khuyến để lại những bài thơ tuyệt vời về mùa thu Việt Nam, vĩnh viễn lưu danh trong lòng người.
Mỗi khi cảm nhận hơi ấm của mùa thu trong làn gió, tôi lại nhớ đến Nguyễn Khuyến. Nhìn màn sương chiều thu phủ trên những chiếc lá vàng rơi, tôi cảm nhận chiếc bóng của ông vẫn hiện hữu giữa thiên nhiên.
Sinh năm 1835, Nguyễn Khuyến đỗ tiến sĩ năm 1871, một cuộc đời hào hoa mở ra trước mắt. Tuy nhiên, ông chỉ làm quan trong vòng 12 năm trước khi rời bỏ sự nghiệp và trở về với cuộc sống bình dị. Trí tuệ và lòng trung hiếu của ông luôn được tôn trọng và ngợi khen.
Là người tuân thủ tôn chỉ của Khổng Tử và Mạnh Tử, Nguyễn Khuyến luôn tôn trọng giáo dục và lòng yêu nước. Ông luôn cống hiến cho việc học hành và phục vụ cộng đồng.
Sự kiên trì và trí tuệ của Nguyễn Khuyến đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của xã hội. Ông là một tấm gương sáng cho tinh thần đóng góp và yêu nước.
Con người đã dành nhiều năm thanh xuân để rèn luyện tri thức và phẩm đức không phải vì mục đích tự phụ, mà vì khát khao đóng góp cho xã hội. Dù gặp nhiều thất bại và thử thách, họ vẫn kiên định và không bao giờ từ bỏ ước mơ của mình.
Cờ biển cũng đã từng đánh dấu ngày tôi bắt đầu hành trình về giáo dục và học hỏi.
Một khi đã hiểu rõ con đường mình muốn đi, con người không ngần ngại từ bỏ sự thoải mái và danh vọng để theo đuổi đam mê thực sự. Đôi khi, việc từ bỏ vị trí cao quý là cách duy nhất để giữ vững lòng tự trọng và sức mạnh nội tâm.
Khi Nguyễn Khuyến rời bỏ sự nghiệp quan, đất nước đang trải qua những biến cố khó khăn. Sự đầu hàng của triều đình Huế trước Pháp đã gây ra nhiều tranh cãi và phản đối trong xã hội. Nguyễn Khuyến là một trong những người không cam chịu việc này và quyết định rời bỏ sự nghiệp quan để tự do theo đuổi lý tưởng của mình.
Không thể bất cần đến sự phản đối của mọi người, không thể lãnh đạm trước những điều không công bằng:
Nếu lì như đá thì chẳng bao giờ cảm nhận được nỗi đau, chỉ có lương tâm mới khiến ta khó nguôi!
Trong chính trường, lương tâm và sân khấu chính trị không thể cùng tồn tại, không thể chấp nhận được nhau nữa.
Nếu không còn đất nước để cờ đương dở cuộc, thì cũng không còn niềm hy vọng để bạc chưa thâu canh đã chạy trốn.
Thôi quay về để tránh xa ánh sáng chói chang của danh vọng và lợi ích, để giữ vững trái tim trung trinh với quê hương, giữ lấy lương tâm trong cuộc sống.
Quay về nơi bình yên để tìm thấy sự thoải mái, những công việc lớn lao chỉ làm ta mỉm cười!
Ai còn giọt lương tâm, lòng yêu nước và tự trọng, hãy quay về:
Mùa thu đã qua, bác Huyện đã về, và bây giờ là lúc ông Thương cũng rời đi.
Quay về sống cùng nhân dân, cùng làng xóm, với cuộc sống giản dị và chân chất. Đó là nơi Nguyễn Khuyến tìm thấy sự an bình và gắn bó suốt đời.
Chỉ khi trở về quê hương, Nguyễn Khuyến mới hiểu rõ hơn về vẻ đẹp tự nhiên của Việt Nam. Chỉ có ông mới có thể dùng ngôn từ đơn giản của dân làng để diễn tả hết được vẻ đẹp của quê hương.
Cánh đồng ngô lúa, con chim nhạn về đất Bắc, giếng sen tàn, rừng phong lá đổ, tuyết rơi nhè nhẹ, gió thổi mưa rơi, hoa triện ngọc, lệ rèm châu... Tất cả đều là biểu hiện của mùa thu Việt Nam, được diễn tả bằng ngôn từ sinh động và chân thành.
Chỉ khi trở về với dân gian, thơ ca Việt mới thật sự hiểu và diễn tả được vẻ đẹp của mùa thu ở Việt Nam.
Nguyễn Khuyến đã viết ba bài thơ về mùa thu Việt Nam, mỗi bài là một bức tranh tâm trạng sâu lắng về tiết thu, mỗi bài là một cung bậc tình cảm trước sắc màu của mùa thu.
Mùa thu ở miền Bắc có sự khác biệt rõ rệt so với miền Trung và miền Nam, mỗi vùng đều có những đặc điểm riêng biệt về thời tiết và cảm nhận về mùa thu.
Mỗi mùa trong năm đều mang đến một không gian tâm linh và một thế hiện riêng biệt, mùa thu là thời điểm yên bình và sâu lắng nhất trong cuộc đời của Nguyễn Khuyến.
Trong mùa thu, sự yên bình và thanh thản của thiên nhiên càng làm cho con người cảm thấy an bình và thanh thản hơn, đắm mình trong vẻ đẹp của mùa thu.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, mỗi câu thơ đều đem lại cảm giác cô quạnh của mùa thu. Đây là thời điểm gần kết thúc mùa thu và bắt đầu mùa đông, khi mọi thứ trở nên se lạnh và cô đơn.
Trong bài giới thiệu về tập Thơ văn của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu đã diễn tả một cách tinh tế về vẻ đẹp cô đơn của mùa thu qua việc miêu tả những chi tiết nhỏ nhặt như ao nhỏ và thuyền câu. Điều này thể hiện sự nhạy cảm và sâu sắc của Nguyễn Khuyến trong việc diễn đạt tâm trạng của mình qua thơ ca.
Mùa thu mang lại không gian yên tĩnh và sâu lắng, không chỉ trong thiên nhiên mà còn trong tâm trí của con người, khi họ có thể tự do ôm trọn nỗi cô đơn và yên bình.
Đời trôi cuốn như con hạc một mình
Tuổi già bóng dáng như mây trôi!
Tâm hồn của Nguyễn Khuyến trong mùa thu không chỉ là sự biểu hiện của cảm xúc cá nhân mà còn là một phần của văn hóa và truyền thống văn học Việt Nam, tạo ra những tác phẩm vĩ đại về mùa thu đất nước.
Mỗi khi nhớ đến Nguyễn Khuyến, tôi vẫn hình dung ông như một hình ảnh của sự bình yên và cô đơn trong mùa thu. Ông ngồi trên chiếc thuyền nhỏ giữa mặt nước ao, chỉ có vài chiếc lá vàng rụng xuống, tạo nên bức tranh mùa thu thanh bình.
Nguyễn Khuyến, như một biểu tượng của lòng yêu nước và sự bình tĩnh giữa những biến cố của đất nước, đã từ bỏ cuộc sống quan trọng trong cung đình để trở về với cuộc sống bình dị của người dân thường.
Chú Đáo làng đến bên tôi
Ông Từ ở gần chợ cũng cùng tôi.
Nội dung về lòng yêu nước trong bài viết 'Câu cá mùa thu - Mẫu 4'
Nguyễn Khuyến, người sinh sống và lớn lên ở vùng quê yên bình, đã truyền đạt tình yêu của mình đối với quê hương và đất nước thông qua những tác phẩm thơ đặc trưng về cảnh quê Việt Nam.
Toàn bộ bài thơ là một hình ảnh tuyệt vời của cảnh quê Bắc Bộ vào mùa thu, với những đặc điểm và ấn tượng rất đặc trưng.
“Trong veo nước ao thu lạnh lẽo
...
Chú cá không nhảy dưới lối bèo”.
Bức tranh mùa thu mở ra nhiều khía cạnh khác nhau, mỗi khía cạnh đều mang đến nhiều cảm xúc sâu sắc. Người câu cá thực chất là người ngắm cảnh, người suy tư, giúp ta hiểu được nhiều hơn về tâm trạng của vị “Tam nguyên Yên Đổ” nổi tiếng.
Bức tranh thiên nhiên bắt đầu với hình ảnh của ao thu lạnh lẽo.
“Nước ao thu trong veo lạnh lẽo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Dấu hiệu đầu tiên của một buổi câu cá là ao thu và thuyền câu. Ta thường thấy hình ảnh này ở vùng đồng bằng Bắc Bộ: những chiếc ao nhỏ bé, yên bình đến mức làm cho nước trong veo. Ao thu lạnh, nhỏ bé và yên bình, khiến cho chiếc thuyền câu trở nên nhỏ bé hơn để hòa mình vào cảnh quan. Chiếc thuyền được đặt trong một không gian yên bình, dường như từ đầu đã là một phần của bức tranh, không làm xáo trộn không khí bình yên của cảnh vật. Bức tranh hiện lên với những đường nét hài hòa.
Từ xa, nhìn toàn cảnh ao thu, bức tranh thu về gần với hình ảnh của sóng. Chúng chỉ là những gợn sóng nhẹ nhàng, chỉ làm nổi bật thêm sự rờn rợn của không gian. Trong sự chuyển động nhẹ nhàng đó, chiếc lá xuất hiện một cách đột ngột, tạo ra một nét đẹp nhẹ nhàng mới:
“Lá vàng khẽ đưa vèo trước gió”
Đọc câu thơ, ta cảm nhận được nhịp chuyển động nhẹ nhàng trước khi chạm đất. Chỉ có người tinh tế, nhạy cảm mới có thể hiểu và thưởng thức được nét đẹp nhẹ nhàng của bức tranh thiên nhiên. Từ xa đến gần, bức tranh tiếp tục mở ra, rộng lớn:
“Tầng mây lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt
Đường làng vắng vẻ, ngọn cỏ uốn cong.'
Không biết có phải từ khí thu mang theo vị buồn hay từ tâm trạng sẵn có của con người mà trong bức tranh, mọi cảnh vật đều trở nên lạnh lẽo, lẻ loi, vắng vẻ. Mọi thứ đều u buồn. Có lẽ cũng là màu xanh trời ngắt của mùa thu, màu sắc đặc trưng của không khí mùa thu ở vùng nhiệt đới, đồng bằng Bắc Bộ, nhưng ở đây nó không gắt như trong câu hỏi “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”, mà lại hài hoà hơn cùng với tầng mây trôi lơ lửng. Không gian trống trải, lạnh lẽo nhưng rất sáng.
Một lần nữa, góc nhìn của người trữ tình đã thay đổi khi nhìn xa ra, đến những con đường quanh co uốn lượn, vẫn không có sự hiện diện của con người. Chỉ là “khách vắng teo” dường như tạo ra một tĩnh lặng tuyệt đối, chỉ có tác giả - người đi câu - đối mặt với một không gian mùa thu buồn. Không biết là do tâm trạng nặng nề của con người đã lan tỏa vào cảnh vật hay là cảnh vật đồng cảm với tâm trạng của con người, tạo ra sự hài hòa cao độ giữa hai thứ. Bức tranh mùa thu trở nên hoàn toàn yên bình:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Bài thơ mang tựa đề là “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) mà đến cuối bài, hình ảnh người đi câu và việc câu cá mới được nhắc tới. Nhưng ngay cả lúc này, vẫn là hình ảnh của một người đi câu trầm ngâm ngồi “tựa gối ôm cần”. Tư thế đó giống như bức tượng “Người suy tư” nổi tiếng của Auguste Rodin, thể hiện một dáng ngồi bất động vào không gian. Đi câu, “tựa gối ôm cần” dường như là để suy ngẫm, không phải để chờ cá cắn mồi. Người đi câu đang chìm đắm trong suy tư của mình đến nỗi không còn quan tâm đến việc câu được cá hay không nữa.
Mải mê suy ngẫm đến mức nghe thấy chỉ một tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” cũng đủ để khiến người trong cuộc tỉnh giấc. Đó chỉ là tiếng cá đớp động, nhưng cũng đủ khiến người đi câu giật mình trở về với hiện thực. Đi câu chỉ là một cớ để tác giả suy tư về cuộc đời, về bản thân mình, là một cách để “câu” sự yên bình trong tâm hồn. Con người ấy, hồn thơ ấy phải đi tìm những giây phút yên bình ấy vì trong lòng ông đang nổi sóng.
Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Khuyến, bức tranh thiên nhiên mùa thu hiện lên vừa buồn vừa đẹp. Buồn vì khí thu đặc trưng và cũng vì người ngoạn cảnh mang theo nhiều tâm trạng. Bài thơ gợi lên cảm nhận về một tâm hồn thơ nhạy cảm yêu thiên nhiên đất nước. Sự gắn bó và yêu thương với vùng đồng bằng, với những ao chuôm nhỏ, thuyền câu, lá vàng, ngõ trúc quanh co... đã giúp nhà thơ có những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên và dành cho nó tình cảm đặc biệt. Bài thơ còn là lời tự sự của một trí thức yêu nước, không thể làm ngơ trước nỗi đau về quê hương, đất nước. Là người trí thức, ông không thể phớt lờ nỗi đau về quê hương:
“Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”
Chính nỗi “non nước” này khiến ông tự hổ làm, như là lỗi của mình phải dùng thơ mà cảm thán:
“Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
Xuân về ngày loạn càng lơ láo”
Dùng tiếng cuốc kêu để thổ lộ tâm sự:
“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”
Có thể nói Nguyễn Khuyến đã gói gọn cả một nhân cách lớn, một tâm hồn sâu lắng và nỗi đau to lớn vào những dòng thơ rất đầy cảm xúc, làm rưng rức trái tim của người đọc ngày nay.
Trong bộ ba bài thơ mùa thu nổi tiếng, “Thu điếu” không chỉ giúp Nguyễn Khuyến trở thành “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” mà còn vẽ nên một hình ảnh lớn lao của ông, luôn ở lại trong tâm trí người đọc.
Tình yêu nước của Nguyễn Khuyến được thể hiện rõ qua những tác phẩm văn xuôi và thơ - Mẫu 5
Vào cuối thế kỷ 19, lịch sử của nước ta đã trải qua một biến cố quan trọng khi bị Pháp xâm chiếm và thống trị. Sự mất mát của quốc gia khiến lòng dân buồn thương. Đặc biệt, các nhà trí thức từ lâu đã tự hào về trách nhiệm dẫn dắt dân tộc, nhưng giờ đây họ phải nhận ra sự vô dụng của mình, nhiều người phải lui về và gửi tấm lòng của mình cho đất nước thông qua văn chương. Một minh chứng điển hình là Nguyễn Khuyến. Trong thơ của ông, có nhiều bài diễn tả sự đau đớn và tuyệt vọng trong giai đoạn nước nhà mất nước, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của tác giả. Hãy cùng xem tình yêu nước đó của Nguyễn Khuyến được thể hiện ra sao qua những bài thơ của ông.
Yêu nước là mong muốn quốc gia đạt được độc lập, vinh quang. Khi mất chủ quyền, dân tộc sống trong tình trạng bị chi phối bởi nước ngoại. Người ta nghĩ đến quê hương không thể không cảm thấy đau lòng. Nguyễn Khuyến đã dùng tiếng cuốc kêu trong đêm hè để thể hiện tình cảm đó. Ông viết:
Bao giờ hồn của Thục đế rơi rụng
Máu chảy đêm hè năm canh vắng
Tâm hồn tan vào bóng nguyệt mờ.
Nghe tiếng cuốc kêu, như nghe máu chảy, tâm hồn tan vào bóng nguyệt là do tiếng cuốc gợi lên trong lòng tác giả nhiều nỗi đau. Nhưng Nguyễn Khuyến không chỉ là một người dân thông thường. Ông là một bậc sĩ phu có danh vọng cao trong xã hội, do đó ông tự nhận trách nhiệm quan trọng đối với dân và đất nước. Ông đã phàn nàn về sự vô dụng của mình:
Sách vở có ích gì trong tình hình đó
Tâm hồn già cỗi lại thêm xấu hổ.
Điều ông có thể an ủi là thái độ không hợp tác của mình với địch. Không mê hoặc bởi quyền lợi và giàu sang, không chấp nhận sự lừa dối của thực dân và tay sai, ông đã từ chức và sống một cuộc sống giản dị ở nông thôn, để bảo vệ những nguyên tắc và phẩm chất của mình. Ông thường sử dụng thơ để thể hiện tâm trạng của mình. Khi nào ông cũng tự so sánh mình với một 'mẹ già' dù không có vẻ đẹp nổi bật, để có thể sống yên bình và dành tâm hồn cho gia đình:
So danh ai bằng mẹ già
Ngoại hình không quan trọng bằng lòng hiếu thảo
Một trái tim tốt sẽ làm mờ những vết bẩn
Chỉ để qua mắt xã hội
Ông ví mình như một người phụ nữ nghèo khổ bị người ta cám dỗ bằng lời ngon ngọt, nhưng vẫn kiên nhẫn và trung thành với kỷ niệm người chồng đã mất. Đó là ý nghĩa của bài Gái góa.
Cha mẹ từ xưa đã dạy rằng
Đừng từ chối hôn phối vì sự chế nhạo của người khác
Mẹ hỏi mẹ thương chỉ thương thế
Thương thì tốt nhưng lựa chồng không tốt
Thương thì cho vay gạo vải
Liệu chồng thì người phụ nữ già này cầu xin
Những suy nghĩ của Nguyễn Khuyến về đất nước và thời cuộc không chỉ dừng lại ở thái độ thụ động, biện bạch về chính mình, mà còn phản ánh vào xã hội rối ren, những người đê tiện được tạo ra trong quá trình đô hộ. Ở đây, ông không chỉ sử dụng thơ để thể hiện cảm xúc cá nhân mà còn dùng lời lẽ mỉa mai, chế giễu hoặc cảnh báo. Yêu nước tự nhiên phải ghét kẻ thù xâm lược. Sự căm hận của ông đối với người Pháp hiện rõ trong nhiều câu chuyện truyền miệng. Một lần, khi đang thăm nhà một người bạn, ông chứng kiến việc chủ nhà tiễn một quan Pháp ra cửa, ông bực tức đáp lại:
Hốt đảo rồi hỏi sao câu
Đời xưa gọi Pháp là quỷ, nhà nho coi họ như một loài “cẩu” hung hãn, cần phải đề phòng. Nhưng suy nghĩ lại, ngoại nhân đáng ghét, nhưng còn đáng ghét hơn nữa là bọn tay sai ngoại nhân, được chúng bôi mặt vẽ mày cho ra đảm đang những công vụ quốc gia, khoe khoang hách dịch với đồng bào. Bọn này không xa lạ với tác giả, có kẻ xuất thân ngay trong hàng khoa cử. Tác giả đã chế giễu cái danh hiệu cuối mùa của họ.
Thân thể nhẹ nhàng vẻ thướt tha
Giá của danh hiệu đó thật lợi lộc
hoặc châm chọc tính tham lam của họ:
Bây giờ trán đã bị trầy da
Ngày xưa mất máy lông ở đâu rồi
Hiện nay, các viên án sát hình như được thực dân ủy quyền để tiến hành điều tra và chiêu mộ đám quan chức Việt Nam, thường hay đến thăm Nguyễn Khuyến và trong lúc lai vãng, tống tặng hay tặng tài câu thi vần phú. Khi quan An gửi tặng một chậu hoa trà, cụ Tam Nguyên đã viết một bài thơ tạ như sau:
Bác mang đến ta một chậu trà
Ta say mê, chẳng biết mùi hoa
Da đã mồi, tóc đã bạc rồi
Bác ơi, áo tía đai vàng kia
Mưa bụi của kinh phường phủ lên lá
Gió may lại sợ đứa giới già
Suy cho cùng ta vẫn nhận biết qua mũi
Không cảm nhận được mùi thơm nào chút nào
Tác giả tự nhận mình như một người phụ nữ già, tự cho rằng mình là một ông lão với lòng kiêu hãnh, vậy thì những tác động của phong trào “Tân trào” đối với tác giả có ý nghĩa gì đáng kể nữa. Nghĩ đến đó, tức giận với ông cụ án sát đa mê muội, thật đáng cụ phải lên tiếng cảnh cáo một cách mạnh mẽ. Nếu ông cụ hiểu được rằng ông đã thề sẽ “sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, mảnh gương trinh bạch, không bao giờ bị nhơ bẩn”, thì ông ta còn dám nói phóng đại về ông cụ như thế nữa không!
Ghét Tây, ghét những quan lại phục vụ cho Tây, Nguyễn Khuyến còn ghét nữa những nghi lễ kiêng kị lố lăng mà họ thường tổ chức, như các ngày lễ của Pháp, ngày lễ độc lập Bát ti, ngày lễ Đình chiến… những sự kiện không liên quan gì đến dân ta. Nhưng họ lại tổ chức các sự kiện vui vẻ, với những trò chơi vô vị như liếm chảo, đập nồi. Dân chúng vô tình tham gia hết mình. Tất cả diễn ra trong không khí vui vẻ. Nguyễn Khuyến đứng nhìn mà thấy đau lòng cho quê hương, cho tinh thần quốc gia, tức giận với cả đám quần chúng vô tâm:
Khen ai giỏi tạo ra niềm vui như thế
Vui vẻ đến đâu, nhục càng lớn
Thật là một cảnh báo nghiêm túc, một lời kêu gọi lòng yêu nước chân thành và đau đớn dành cho những người vẫn còn biết suy nghĩ, biết yêu thương.
Bên cạnh đó, trong những bài thơ tâm sự hoặc ca ngợi, ta cũng có thể thấy lòng yêu nước của Nguyễn Khuyến được thể hiện rõ trong nhiều bài thơ về nông thôn của ông. Đối với ông, yêu nước không chỉ là biểu đạt sự phẫn nộ và thất vọng trước tình hình đất nước. Yêu nước đối với Nguyễn Khuyến còn là việc trở thành một giọng thơ thanh thản hơn, nhìn nhận và ca ngợi những vẻ đẹp của đất nước, yêu nước cũng là yêu cảnh quan của quê hương. Phần lớn quê hương của chúng ta là nông thôn, với những cảnh đẹp đơn giản nhưng gần gũi như lũy tre, mái tranh, con đường đất, những cái ao nước... Nguyễn Khuyến đã đưa tất cả những yếu tố đó vào trong những tác phẩm của mình. Đọc những câu thơ mùa thu của ông như:
Sóng nước nhẹ nhàng theo làn gió
Lá vàng lay động trước làn gió mềm mại
Những đám mây trắng trôi bên trên bầu trời xanh thẳm
Những con đường quanh co vắng vẻ bên cạnh những lũy tre
hoặc:
Năm gian nhà gỗ thấp kênh kẽnh
Con đường vào ban đêm tối om ánh đèn lạnh lẽo
Chiếc lá phơi phới bên cạnh những cành cây mờ nhạt
Nước ao lấp lánh dưới ánh trăng sáng
Chúng ta cảm nhận được một cảm xúc nhẹ nhàng, thanh thản. Tác giả đã tài tình biến cảnh quê hương của chúng ta trở nên đẹp đẽ hơn, khiến cho chúng ta càng yêu quê hương hơn.
Và tình yêu đối với đất nước của Nguyễn Khuyến cũng bao gồm việc yêu thương những người dân nền tảng của đất nước, những người làm ruộng, dân nông, họ đã làm việc vất vả, góp phần vào nền kinh tế quốc gia. Ông đã dành sự chú ý đặc biệt đến cuộc sống của họ. Đa số dân quê của chúng ta là những người làm nông nghiệp, họ phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, hẹp hòi như thế nào, ông đã thể hiện trong bài thơ Làm ruộng:
Phần thuế nặng nhọc phần nợ nần
Một nửa công lao để trả nợ cho thuê ruộng
Buổi sáng tới trưa, ăn dưa muối làm qua bữa ăn
Chợ búa giàu có mà cũng không dám mua đồ...
Và những trận lụt nghiêm trọng, cộng với chính sách thuế nặng của thực dân, đã làm cho dân làng chúng ta lo lắng và buồn bã như thế nào, ông đã mô tả trong nhiều bài thơ khác:
Kênh Mễ Thanh Liêm đã tràn rồi
Vùng đất của chúng ta không tránh khỏi lũ
Gạo bị mất nhiều năm sản xuất mà vẫn còn thiếu hụt
Thuế nặng chẳng thể tránh khỏi sự đòi hỏi...
Nhìn nhận từ các tác phẩm của Nguyễn Khuyến, chúng ta thấy được một trái tim yêu nước chân thành. Nguyễn Khuyến thực sự là một người đại diện cho giai cấp sĩ phu trong giai đoạn khó khăn của quốc gia. Khi đọc lại những bài thơ mà ông viết, từ lúc hân hoan đến lúc uất ức, lòng người ta rung động với quê hương, với nhân dân trong những thời kỳ khốn khó, điều này khiến chúng ta càng trân trọng văn chương và tâm hồn của nhà thơ lỗi lạc từ làng Yên Đổ.