Đề bài: Em hãy phân tích Nghệ thuật Miêu tả Tâm trạng Thuý Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, trích từ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.
I. Dàn ý
II. Bài văn mẫu
Phân tích Nghệ thuật Miêu tả Tâm trạng Thuý Kiều ở đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
I. Dàn ý Phân tích Nghệ thuật Miêu tả Tâm trạng Thuý Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)
1. Mở bài
Giới thiệu về đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' và nghệ thuật tinh tế miêu tả tâm trạng nhân vật trong đoạn trích này.
2. Thân bài
- Tâm trạng cô đơn, lạc lõng của Thúy Kiều trước không gian u tối của lầu Ngưng Bích.
- Không gian vô người, chỉ có thiên nhiên (non xa, tấm trăng gần) và ánh đèn làm bạn để chia sẻ tâm lý nhân vật.
- Nỗi nhớ về người yêu, cha mẹ qua một cách đặc sắc và khát khao trở về để chăm sóc tuổi già cho cha mẹ...(Tiếp theo)
>> Xem Dàn ý Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Chuẩn)
Có thể nói rằng, điều khiến chúng ta nhớ về các nhân vật văn học không chỉ là ngoại hình mà còn là diễn biến tâm lý, tâm trạng của họ. 'Truyện Kiều' luôn cuốn hút người đọc qua thời gian với nội dung xuất sắc và nghệ thuật miêu tả tâm trạng của Nhà thơ Liệt biểu Nguyễn Du. Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' thực sự là một ví dụ điển hình về sự tài năng của ông trong việc diễn đạt tâm trạng nhân vật Thúy Kiều.
Lầu Ngưng Bích là nơi Tú Bà giam giữ Thúy Kiều để thực hiện một âm mưu sau khi nàng có ý định tự tử. Trong không gian rộng lớn đó, Thúy Kiều cảm thấy cô đơn và buồn bã:
'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở đây
Bốn phía bát ngát xa kia
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm xa'.
Kiều bị đẩy vào hoàn cảnh thương tâm. 'Khóa xuân' là biểu tượng của tuổi thanh xuân bị giam cầm. Cuộc sống của con người đẹp nhất ở thời kỳ trẻ trung, nhưng tuổi thanh xuân của Kiều lại phải trải qua những biến cố đau lòng trong suốt mười lăm năm lang thang. Bị giam giữ trong lầu Ngưng Bích là như bị nhốt trong ngục tù, nàng không được tự do như những cô gái khác. Lầu Ngưng Bích trở thành ngôi nhà tù làm kiều hình dung sự tự do của một con người vô tội. Điều này thể hiện sự bất hạnh và thương tâm của một thiếu nữ tài năng và thuần khiết. Trước mặt không gian rợp bóng tối, nàng cảm nhận sự cô đơn hơn bao giờ hết. Chỉ có 'tấm trăng gần' làm bạn đồng hành. Cả bốn hướng đều xa xăm và bát ngát, khiến nàng cảm thấy càng trống vắng vì không có dấu vết của cuộc sống con người. Thúy Kiều hoàn toàn bị cô lập, và xung quanh chỉ là những khoảng trống trải dài: 'non xa', 'tấm trăng gần', 'cát vàng cồn nọ', 'bụi hồng dặm xa'. Việc tìm kiếm một bóng dáng con người để chia sẻ là điều vô cùng khó khăn.
Thực tại đau đớn khiến nàng mất đi hy vọng vào tương lai:
'Bẽ bàng, mây sớm, đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh, như chia tấm lòng'.
'Bẽ bàng' là từ diễn đạt cảm giác xấu hổ, buồn tủi. Thúy Kiều cảm thấy xấu hổ và buồn tủi khi bị lừa bởi Mã Giám Sinh, dẫn đến việc bị bán vào lầu xanh. Nàng cảm thấy hổ thẹn vì đã mất đi sự trong trắng, không xứng đáng với tình cảm của Kim Trọng. 'Mây sớm đèn khuya' mô tả sự lặp lại của thời gian. Ở lầu Ngưng Bích, sáng sớm Kiều kết bạn với mây, tối đến nàng tìm sự an ủi từ ngọn đèn để giảm bớt nỗi cô đơn. Tâm trạng lẻ loi và buồn tủi khiến nàng chia thành hai phần: 'nửa tình' - 'nửa cảnh'. Cảnh vật hoang vắng thêm vào nỗi buồn của nhân vật. Nguyễn Du tinh tế khi diễn đạt:
'Cảnh nào cảnh chẳng ghi lại nỗi buồn
Người buồn, cảnh nào cũng tê tái đau lòng'.
Nỗi cô đơn và trống vắng leo thang khi Kiều nhớ về cha mẹ và người yêu:
'Tưởng bên dưới ánh trăng chén đồng
Tin sương lạnh lùng rủ bờ mai chờ đợi
Bên trời, góc bể cô đơn vơ vẩn
Tấm son rơi bởi thời gian không tha thứ'.
Kiều hồi tưởng về tình yêu đầu bằng nỗi buồn sâu thẳm. Khi uống rượu cùng Kim Trọng, lời thề 'Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương' vẫn rơi như dấu ấn trong trái tim Kiều. Hứa hẹn bền chặt, nhưng giờ đây, Kiều lạc bước ở phương trời xa, còn Kim Trọng không biết về số phận của nàng vì chàng đang quê chịu tang chú. Nàng tưởng tượng chàng trò chuyện, nhớ về mình. Nhớ về Kim Trọng càng sâu, Kiều càng hổ thẹn. Tình yêu thủy chung với Kim Trọng vẫn nguyên vẹn, 'tấm son' ấy vẫn kiên cường qua bao gian nan. Nhưng nàng đau đớn khi nhận ra 'tấm son' đó đã mất đi sự trinh bạch:
'Tiếc thay đoá trà mi
Con ong đã rũ đường về lối nhà
Mưa gió đêm nặng nề đã qua
Thương tiếc gì đến ngọc, hối hận gì đến hương'.
Lòng thủy chung ố vàng, liệu Kim Trọng có hiểu được đau khổ của nàng?
Là con hiếu thảo, Thúy Kiều không quên nhớ đến cha mẹ:
'Xót lòng, gần cửa ngày mai
Quạt mát ấm lòng ai chờ bên hiên?
Sân Lai xa lắm nắng mưa
Có khi cây cỏ đã ôm chặt tâm hồn'.
Nàng thương cha mẹ, mong chờ mỗi tin tức và đau lòng vì tình cảnh bản thân. Nỗi lo khi cha mẹ già mỗi ngày, thiếu bóng dáng con chăm sóc. Nàng, chị cả, nằm đây bơ vơ giữa bốn bề, chưa biết bao giờ mới hòa mình vào vòng tay gia đình. 'Cách mấy nắng mưa' - khoảng cách xa xôi về thời gian và không gian giữa Thúy Kiều và cha mẹ. Nàng tự hỏi bao giờ mới thực hiện tròn vụng trận vai con hiếu thảo. Trong lúc cô đơn, nàng nói với chính mình với tâm trạng đau đớn, day dứt.
Bút pháp miêu tả cảnh ngụ tình tận dụng tám dòng thơ cuối, không chỉ phản ánh lầu Ngưng Bích mà còn làm dụng tâm hồn độc đáo của nhân vật:
'Buồn nhìn cửa khuất chiều tàn
Thuyền nhỏ xuôi nguồn buồn vô tận
Buồn ngắm nước biếc xa xa
Hoa trôi đâu biết, mơ mình về đâu?
Buồn ngắm cỏ biếc vuốt vuốt
Chân mây mặt đất xanh muôn màu
Buồn trông gió đưa mặt cười
Âm thanh sóng biển lắng êm, gọi nhớ ghế bên'.