Phân tích nhân vật ông Ngư trong truyện Lục Vân Tiên được lựa chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên toàn quốc, giúp học sinh hiểu rõ hơn và viết văn một cách dễ dàng hơn.
Phân tích nhân vật ông Ngư trong truyện Lục Vân Tiên (tóm tắt, ngắn gọn)
Phân tích nhân vật ông Ngư trong truyện Lục Vân Tiên - mẫu số 1
Trong truyện Lục Vân Tiên, sự thảm nạn một lần nữa chứng tỏ ý thức nhân nghĩa toả sáng và niềm tin của nhà thơ mù đất Đồng Nai đối với nhân dân giữa những thời kỳ đen tối.
Nhân vật ông Ngư trong Lục Vân Tiên được miêu tả rất đẹp, là hình ảnh tiêu biểu của lòng nhân từ trong dân tộc: 'Thương người như thể thương thân'. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho ông Ngư một tình cảm sâu sắc.
Trịnh Hâm là một kẻ tàn ác, đầy gian ác, đố kỵ tài năng. Hắn đã gian lận và hãm hại Vân Tiên (khi anh ta đã mất thị lực) rồi đẩy anh ta xuống sông để chết. Trong 'đêm tối yên bình như giấy', hắn đã 'đưa ra tay' đẩy Vân Tiên xuống nước, tuy nhiên hắn vẫn giả vờ có đạo đức bằng cách phát ra 'tiếng than thở vào trời'. So với những kẻ tàn ác đó, những người đồng hành trên thuyền đã đau buồn lên tiếng than thương:
Trên thuyền, mọi người đều góp tiếng nói !a,
Mọi người đều thương cảnh khốn khó của Lục, lòng đau xót.
Thái độ, tình cảm ấy phản ánh lòng nhân từ của dân tộc Việt như ca dao đã truyền: “ Khi gặp người gặp khó khăn thì thương...
Trời đất cũng không lãng quên một con người tốt bụng như Vân Tiên. Thậm chí cả giao long - một loài thủy quái - cũng đến cứu người trong lúc nguy nan:
Vân Tiên bị tai nạn giữa dòng nước,
Giao long dẫn dắt anh ta vào bờ.
Sự xuất hiện của giao long trong tình huống Vân Tiên gặp nạn, mặc dù tạo nên bầu không khí huyền thoại trong truyện thơ, nhưng cũng làm nổi bật một sự thật đắng lòng trong cuộc sống, đó là có những lúc con người ác độc hơn cả loài sói. Trong tình cảnh đó, ông Ngư đã hiện hữu. Người bị nạn đã gặp được người nhân từ:
May mà trời đã sáng tỏ,
Ông chài kịp thời vớt lên bờ.
Bốn từ 'vớt lên bờ' thể hiện tinh thần nhanh nhẹn, sẵn sàng cứu giúp người đang gặp nguy hiểm. Cả một gia đình hăng hái lao vào cứu chữa, chăm sóc người bị nạn. Con cái thì 'đốt lửa', châm lửa, sưởi ấm người bị đuối nước. Hai vợ chồng, người thì 'làm ấm bụng dạ', người thì 'làm ấm khuôn mặt' cho Vân Tiên:
Đốt lửa trong chớp một giờ,
Ông làm ấm bụng dạ, bà làm ấm khuôn mặt.
'Hối' ở đây có nghĩa là hối hả, nhanh chóng, là cách diễn đạt dân dã của người nông thôn miền Nam. Trong bối cảnh văn, nó thể hiện sự lo lắng về tính mạng của người bị nạn, là biểu hiện của lòng nhân ái rộng lớn của ông Ngư.
Khi Vân Tiên tỉnh dậy, ông Ngư đã ân cần 'hỏi han', chia sẻ những lời an ủi, đồng cảm với nỗi đau của người bị nạn. Dù không giàu có, nhưng ông Ngư đã một lòng mời Vân Tiên, người mù mắt, khốn khổ ở lại với gia đình ông, để được chăm sóc, nuôi nấng:
Ngư nói: “Ai sống chung với tôi,
Mai sau sẽ hưởng hạnh phúc bên cạnh già'.
Trong cuộc sống, có câu 'một lời nói một đòi máu' (đòi: bát). Có câu 'một câu nói một gói bạc”. Lời nói của ông Ngư chứa đựng một trái tim vàng, tràn đầy lòng nhân đạo.
Cuộc đời của ông Ngư là hành trình của một con người 'từ chối sự giàu sang', tìm kiếm ẩn mình trong sự hiểu biết, quý trọng tình bạn, và kiên định theo đuổi lý tưởng nhân nghĩa cao cả:
Ngư nói: “Trái tim lão không mơ ước,
Dùng tấm lòng nhân nghĩa để đền đáp lòng biết ơn.
Đổ nước trong rửa sạch tận ruột,
Một câu nói về danh lợi chỉ làm xót xa lòng người này'.
Vân Tiên đã đánh cướp để cứu dân, cứu Kiều Nguyệt Nga với lòng: 'Làm ơn hãy giữ người trả ơn'. Ông Ngư cũng vậy: 'Dùng tấm lòng nhân nghĩa để đền đáp lòng biết ơn'. Những trái tim cao cả ấy đã gặp nhau, họ đã ca ngợi tình nhân ái. Và đó cũng là lẽ sống của cuộc đời: 'hòa hiền gặp hiền' như đã có nhà thơ nói.
Ngoài lòng nhân ái rộng lớn, ông Ngư còn có một tâm hồn thanh cao. Ông đã hòa mình vào thiên nhiên, yêu thích không gian rộng lớn. Sông biển, trời xanh là nơi ông tìm thấy sự yên bình và hạnh phúc. Suốt ngày tháng, ông đã cảm nhận vẻ đẹp của đồng bằng, núi rừng, sông hồ. Ông đã hòa mình vào cơn gió, ánh trăng, đắm chìm trong âm thanh của dòng nước. Ông đã chấp nhận cuộc sống chật hẹp của ngư dân, sống một cuộc đời thanh bạch và tự do. Ông Ngư là biểu tượng của sự giản dị, không mê muội danh vọng. Câu thơ ý nghĩa như một lời tuyên ngôn về lối sống của một người trí thức, một tinh thần hiếu học sống giữa thế gian hối hả:
Trên thuyền, bên vịnh vui sướng ngày mai,
Hôm nay, thưởng thức gió và trăng dạo đêm.
(...) Trên chiếc thuyền nhỏ trôi dạt trong cuộc sống,
Trải nghiệm mưa, thử thách gió trên dòng sông Hàn.
Những câu thơ tinh tế nhất, sâu lắng nhất trong Truyện Lục Vân Tiên. Giọng văn nhẹ nhàng, trầm ấm. Cảm hứng từ thiên nhiên tươi đẹp lan tỏa tạo nên giai điệu thơ mộng, phản ánh một cách hoàn hảo tâm hồn trong sáng, cao quý và phong trần của ông Ngư.
Như ông Quán, ông Tiều và nhiều nhân vật khác, nhân vật ông Ngư trong đoạn thơ này không chỉ là người lao động chân chất, nhân từ, mà còn là biểu tượng của một nhà học phổ thông coi trọng tình nhân ái, giàu lòng nhân nghĩa, yêu tự do và cao quý. Sống giữa thời đại loạn lạc, nhân vật ông Ngư cũng là biểu tượng của lối sống và tư tưởng nhân nghĩa của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thật là một hình mẫu cho một con người:
Trí tuệ đã sẵn có,
Tha hương giữa cuộc sống, thưởng thức hạnh phúc trên trời.
Phân tích nhân vật ông Ngư trong truyện Lục Vân Tiên - mẫu 2
“Lục Vân Tiên gặp nạn” là một đoạn trích nổi bật về sự đối lập giữa thiện và ác, lên án và chỉ trích ác, đồng thời khẳng định thiện luôn tồn tại như một nguyên tắc, trong đoạn trích thiện được thể hiện qua hình ảnh của ông Ngư, người mà Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tình cảm đặc biệt thông qua phẩm chất và hành động của ông
Ông Ngư là một con người giàu lòng nhân ái, đã ra tay giúp đỡ Vân Tiên khi chàng bị thương bởi Trịnh Hâm, một người tránh xa xô bồ của xã hội, không quan tâm đến những cuộc tranh chấp, sống cùng gia đình một cuộc sống yên bình, không lo lắng, có thể những điều đó đã tạo nên nhân cách của một con người, một người giàu lòng trắc ẩn, sự ân cần giúp đỡ khi gặp khó khăn, sau khi cứu Vân Tiên lên bờ ông đã khích lệ, tìm cách cứu chữa cho chàng.
Loanh quanh với lửa trong một giờ,
Ông ân cần, mụ hiền lành
Đối với ông, Vân Tiên chỉ là một người xa lạ không quen biết, một người chưa từng gặp, không quan trọng là tốt hay xấu, không quan trọng giàu hay nghèo, với ông đó là một sinh mạng, tình thương người trong ông đã thúc đẩy ông, gia đình ông, mỗi người một công việc, làm tất cả để cứu sống người đó, bản tính của những người lương thiện mới có thể hành động như vậy, những người lao động bình thường không quan trọng việc nhận lại, hành động dựa trên sự truyền cảm của tình người. Bằng những câu thơ đơn giản, bình dị nhưng đã tường minh hóa vẻ đẹp ẩn sâu bên trong con người mà không phải ai cũng có. Khi Vân Tiên tỉnh dậy cảm kích, tỏ lòng biết ơn với người đã cứu giúp mình, ông Ngư đã thẳng thắn, quả quyết trước hành động của mình, không quan trọng mức độ đền đáp, khi nghe Vân Tiên bày tỏ lòng biết ơn, ông đã hiểu được con người đó, nhận thức được hành động của mình là không vô ích, ông đã cứu giúp được một con người lương thiện, hành động đáng quý của ông không cần phô trương, chỉ im lặng mà lại cực kỳ to lớn. Sau khi hiểu rõ con người của Vân Tiên, những điều mà chàng trải qua, ông không ngần ngại mời Vân Tiên ở lại cùng gia đình, sống cuộc sống của những người lao động chân chất, chân thành, mọi người cùng chia sẻ công việc với nhau.
Sau những việc ông Ngư đã làm, hình ảnh đó lại hiện ra một lần nữa, hình ảnh tự do với chiếc thuyền nhỏ bé của mình, chỉ cần thuyền trôi giữa dòng sông rộng mở đã mang lại niềm hạnh phúc, sự cảm nhận cuộc sống cho ông, ông sống theo thiên nhiên, sử dụng những gì mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống của mình, ông sử dụng mưa làm nước rửa mặt, gió làm nước chải tóc, vuốt râu. Ông cảm nhận sự yên bình mà ông đã từ bỏ tất cả để có được, cuộc sống của ông rất khác biệt so với những mục tiêu nhỏ bé, cuộc đua về vật chất, với những cuộc đấu tranh tranh giành làm chủ nhằm sống trong xã hội bên ngoài.
Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp của những người lao động, niềm tin vào tình yêu, sự đối lập giữa thiện và ác, tôn vinh tính cao thượng, đức tính cần có trong mỗi con người.
Phân tích nhân vật ông Ngư trong truyện Lục Vân Tiên - mẫu 3
'Lướt trên dòng thuyền không bao giờ chìm
Chọc mấy kẻ gian không đáng đời'
Với quan điểm sáng tạo văn chương tiên tiến, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã mang đến cho văn học trung đại Việt Nam những tác phẩm có giá trị về đạo lý. Trong số đó, truyện thơ 'Lục Vân Tiên' là một ví dụ tiêu biểu thể hiện điều này. Dựa trên cơ sở của luân lí truyền thống bao gồm các phẩm chất như 'nhân, nghĩa, lễ, trí, tín', tác phẩm đã truyền đạt nhiều bài học quan trọng về tư tưởng nhân nghĩa. Bên cạnh nhân vật trung tâm là Lục Vân Tiên, Ngư ông cũng là một nhân vật để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Qua đoạn trích 'Lục Vân Tiên gặp nạn', Ngư ông hiện ra với vẻ đẹp nhân nghĩa thông qua việc thực hiện những hành động nhân nghĩa cùng với nhân cách cao quý và cuộc sống vô cùng cao cả.
Dù gặp phải khó khăn và cô đơn tại quê nhà, Lục Vân Tiên vẫn gặp thêm khó khăn khi bị Trịnh Hâm hại. Vì lòng đố kỵ, ghen ghét và lòng độc ác, bất tin, bất nhân và bất nghĩa của Trịnh Hâm đã dùng kế hoạch để đẩy Vân Tiên 'xuống vực tuyệt vọng'. Ngư ông đã xuất hiện và giải cứu Vân Tiên thoát khỏi nguy hiểm này:
'Ông chài nhìn thấy cứu ngay lên bờ'
Nháy mắt như vung lửa một giờ
Ông hiền dịu, bà dễ mặt cười'
Những hành động cứu người đầy khẩn trương và quyết đoán, không do dự, suy tính của Ngư ông và gia đình như 'vớt ngay lên bờ', 'Nháy mắt như vung lửa', 'Ông hiền dịu', 'bà dễ mặt cười' đã thể hiện tình cảm chân thành, không vụ lợi của những người giúp đỡ đối với người gặp nạn. Không chỉ dừng lại ở đó, hành động cứu giúp Vân Tiên của gia đình Ngư ông còn cho thấy đó là sự tự nguyện và bắt nguồn từ lòng yêu thương con người - một truyền thống nhân đạo vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta. Hành động 'Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp' đã được miêu tả một cách chân thực và giản dị thông qua lớp ngôn từ đơn giản, không cầu kỳ và mang đậm hương vị Nam Bộ. Và khi hiểu rõ hơn về hoàn cảnh của Lục Vân Tiên, dù chỉ là một gia đình sống với nghề chài lưới nhưng Ngư ông vẫn mở lòng để cưu mang một con người trong cảnh hoạn nạn:
Ngư phủ nói rằng: 'Bên ta cùng ngươi
Mai sau vui vẻ hòa thân cùng lão già'
Hành động cứu người diễn ra quyết đoán, và câu nói đầy tình thương đối với Lục Vân Tiên, một người mù lòa, một lần nữa thể hiện phẩm chất cao đẹp của ngư phủ này. Đó cũng là sự tự nguyện, sẵn lòng chăm sóc những người gặp khó khăn mà không đòi hỏi điều gì:
Ngư phủ nói rằng: 'Lòng ta không ảo
Vì lòng nhân nghĩa mà chờ đợi trả ơn
Nước trong rửa sạch ruột không lòng vòng
Một câu nói về danh lợi chẳng là gì đây'
Miêu tả về tinh thần nhân nghĩa của ngư phủ khiến chúng ta nhớ đến nụ cười thánh thiện và tự do của Lục Vân Tiên khi Kiều Nguyệt Nga muốn bày tỏ lòng biết ơn về việc cứu mạng:
Vân Tiên nghe nói liền mỉm cười:
'Hãy để dễ dàng trông chờ trả ơn'
Câu 'Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn' của ngư phủ và 'Hãy để dễ dàng trông chờ trả ơn' của Lục Vân Tiên thể hiện tinh thần nhân nghĩa và sự cao thượng, đồng thời thể hiện triết lý 'trọng đạo không trọng tài': Giúp đỡ người khác mà không mong đợi phần thưởng, mới đúng với phẩm chất của một người đạo đức cao cả.
Qua những hành động cứu người quyết đoán và đồng cảm, muốn bảo vệ Lục Vân Tiên, chúng ta có thể hình dung được cuộc sống lịch thiệp của người ngư phủ nhân ái:
'Hôm nay vui vẻ ở bên vịnh, ngày mai hưởng gió, đêm nay thưởng trăng'
'Thuyền đây, mai sau tiếp tục vui vẻ, đêm nay thì hưởng thú với ánh trăng'
Ngồi một mình, thong thả làm việc
Khỏe mạnh kéo lưới, mệt mỏi thả câu dầm
Mặc dù chỉ là một ngư dân, nhưng Ngư ông lại tỏ ra như một nhà sư với phong cách sống cao đẹp, hòa mình với thiên nhiên và thú vui tĩnh lặng 'hứng gió' và 'chơi trăng'. Cuộc sống của người lao động chân chất và lương thiện được mô tả qua hình ảnh 'Khỏe mạnh kéo lưới, mệt mỏi thả câu dầm' trên chiếc thuyền nhỏ, nơi mà sự cần cù, độc lập và thanh bạch tồn tại và gắn bó mật thiết với tư tưởng nhân nghĩa cao quý.
Nhân vật Ngư ông được tạo hình thông qua hành động và lời nói - cách diễn đạt nhân vật phổ biến trong văn học trung đại, tạo nên một hình ảnh đồng nhất và đẹp đẽ về bản tính: Hành động cứu người quyết đoán, không do dự và lời nói trực tính, cùng với cuộc sống gắn bó với thiên nhiên, sông nước, không quan tâm tới lợi ích - thất vọng. Bức chân dung của Ngư ông được tái hiện thông qua ngôn từ giản dị và mộc mạc, gần gũi với ngôn ngữ dân gian, ca dao và mang đậm bản sắc 'chất Nam Bộ'.
Thông qua hình tượng của nhân vật Ngư ông, chúng ta càng hiểu rõ hơn về quan điểm sáng tạo và tâm trạng của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Dù sống trong hoàn cảnh cực khó khăn, nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp và tinh thần cao cả. Qua hình ảnh của nhân vật Ngư ông, chúng ta cũng thấy được lòng tôn trọng và niềm tin của nhà thơ vào phẩm chất của những người lao động đơn giản, chân thành trong thời kỳ rối ren và lạc lõng.