Phân tích những đặc điểm nghệ thuật của ngòi bút Nguyễn ái Quốc trong truyện ngắn Vi hành
BÀI LÀM
Truyện kí của Nguyễn ái Quốc được viết 'như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất tinh tế, rất Pháp'(Phạm Huy Thông). Vi hành là một truyện ngắn tổng hợp đầy đủ các đặc điểm nghệ thuật của bút truyện kí Nguyễn ái Quốc. Vi hành là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyền ái Qụốc ra đời vào những năm hai mươi của thế kỉ XX. Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp, số ra ngày 19 tháng 12 năm 1923.
Vi hành trước hết nhằm vào độc giả người Pháp, vào dân Pa-ri. Vi thế tác phẩm phải viết có nghệ thuật, phải sử dụng bút pháp của truyện ngắn châu Âu hiện đại. Hơn nữa, để có sức thuyết phục cao với người Pháp, tác giả phải giữ thái độ khách quan, tránh lối thảa mạ trực tiếp bằng những “lời lẽ đao to búa lớn”
Mục đích là tố cáo lật tẩy nên tinh thần và linh hồn tác phẩm là châm biếm, đả kích. Tinh thần này thấm vào toàn bộ từ giọng diệu đến mọi tình tiết và biến hóa thành nhiều dạng khác nhau để có thổ 'đánh' từ nhiều phía, bằng nhiều cách.
Tên tác phẩm nguyên văn tiếng Pháp là Incognito (dùng tên giả không để bất cứ một ai biết được). Người Pháp dùng incognito vói nghĩa bình thường. Nguyễn ái Quốc dùng với rất nhiều dụng ý vừa thật vừa giả, vừa nghiêm chỉnh vừa đùa cợt, vừa đả kích vừa châm biếm. Cái biến ảo hư hư thực thực rất phù hợp với tình huống truyện. Dịch gả Phạm Huy Thông đã tỏ ra rất hiểu dụng ý nghệ thuật của tác giả khi chọn dịch nhan đề tác phẩm là Vi hành. Vi hành vốn là việc làm tốt cùa vua chúa khi cài trang làm dân thường đi tìm hiểu đời sống của muôn dân. Khải Định sang tận Pháp để 'vi hành' xem dân An Nam sống thế nào dưới'sự trị vì của ngài thì quả là xưa nay-chưa từng có, quả thật là nực cười.
Lời chú thích bên dưới nhan đề: 'Trích Những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch từ tiếng An Nam' tuy chỉ có một dòng ngắn ngủi thôi nhưng lại vô cùng quan trọng. Đây là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo để gây sự hấp dẫn, khêu gợi tính hiếu kì của độc giả khi mà cái kho giải trí của Pa-ri đang có nguy cơ cạn kiệt. Anh em họ ở đãy có thể-yêu nhau, lấy nhau. Vì thế mà dòng chú thích như ngòm hứa hẹn với độc giả những lời lẽ yêu đương mùi mẫn, những chuyện tình riêng tư kín đáo. Độc giả không thể dừng lại giở chừng, tò mò theo dõi hết cầu chuyện mới biết mình đã bị lừa một cách hết sức ngoạn mục, bị lừa nhưng lại hết sức khâm phục kẻ đã lừa mình vì đó là cú lừa của một trí tuệ tác việt và một ngòi bút đầy bản lĩnh.
Nguyễn ái Quốc được coi là một nhân vật quan trọng của dân tộc Việt Nam. Dù Khải Định có vị thế nào đi nữa, việc trực tiếp phê phán không phải là điều dễ dàng vì truyền thống người Việt không chấp nhận được điều đó. Tác giả sử dụng một cuộc trò chuyện của một cặp trai gái người Pháp để tạo hình ảnh nhân vật chính rõ ràng hơn và thể hiện ý kiến phê phán, châm biếm một cách mở cửa. Sự sáng tạo này mang lại tính khách quan cho tác phẩm và nhờ tính khách quan này mà hiệu quả phê phán trở nên độc đáo, sâu sắc hơn. Để thể hiện rõ thái độ phê phán, nhà văn đã sử dụng một kỹ thuật thường thấy: tạo ra tình huống nhầm lẫn. Đôi trai gái người Pháp nhầm lẫn tác giả với vua An Nam - một sự nhầm lẫn vô tình của nhân vật nhưng lại chứa đựng ý kiến của tác giả. Việc nhầm lẫn là điều thường xuyên xảy ra trong cuộc sống. Tác giả (nhân vật chính) kể lại câu chuyện nhầm lẫn vô tình đó một cách khách quan vì biết được họ nói gì nhưng họ lại nghĩ rằng 'ông ta' không biết gì nên nói rất thoải mái. Một mục đích chính trị quan trọng lại được lồng vào một hư cấu nghệ thuật đơn giản đến kỳ lạ, một hư cấu mà cứ như không hề hư cấu vì tính chân thực đến kinh ngạc của những điều 'mắt thấy tai nghe'. Trong một khoảnh khắc ngắn trên tàu điện ngầm, chỉ có ba nhân vật trong đó 'tôi' chỉ lặng lẽ ngồi nghe suy tư trong khi cặp đôi tình nhân xôn xao quanh một câu chuyện vô cùng 'xôm tụ', nhưng cũng vô cùng hào hứng, vô nghĩa. Với họ, đó là chuyện phiếm, chuyện vui, chuyện phù phiếm. Với 'tôi', đó là chuyện nghiêm túc, chuyện buồn, chuyện đau lòng.
Sự nhầm lẫn là cơ hội để tác giả gián tiếp vẽ chân dung của Khải Định ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau. Nhân vật thật, nhân vật chính không cần phải xuất hiện mà vẫn thấy rõ chân dung một cách sinh động và ấn tượng. Đó là một bức chân dung đầy kỳ lạ được hiện ra với những nét vẽ không giữ chừng, phóng túng của những lời nói hài hước. Một bức chân dung hiếm hoi đã được lộ ra dưới góc nhìn hài hước của người dân Pa-ri, từ cách ăn mặc lố bịch, cách trang sức đầy những vòng, những nhẫn. Trên đầu lại đội cái 'chụp đầu”. Khuôn mặt vàng bóng 'như vỏ chanh', mũi tẹt, mắt xếch. Trang phục của Khải Định trong thực tế đã hài hước, nhưng trong con mắt của người Pháp, nó lại càng lố bịch và kỳ quặc. Qua ngôn ngữ của cặp trai gái Pa-ri, người đọc hiểu đó là một kiểu ăn chơi bừa bãi. Đã vậy, Khải Định mặc áo váy cầu kỳ cũng trở nên hài hước. Khải Định đã bị lộ bịch không chỉ về nhân cách mà còn về giá trị. Giữa xã hội văn minh, Khải Định tự làm mình như một thứ đồ cổ, thậm chí còn tồi tệ hơn, một trò cười rẻ tiền, một con rối chỉ có giá trị giải trí không lớn. Lời bình của cặp trai gái Pháp về vị vua của một nước thuộc địa là những lời nói công khai mang màu sắc tự đọng dân chú. Với họ, vua chúa không được kính trọng. Mọi người xem vua chú như một thứ đồ chơi nhằm thay đổi không khí đã quá nhàm chán trong cuộc sống của người dân Pa-ri.
Sự châm biếm của tác giả nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Với hàng loạt liên tưởng, so sánh, tác giả đã tạo ra một trận đòn bút cay đắng. Khải Định đến Pháp vào thời điểm kho giải trí của người dân Pa-ri đang cạn kiệt. Vì thế, ông trở thành một thứ hàng sống ngổ ngộ. Nhưng trò hề của Khải Định còn rẻ tiền hơn cả trò nhào lộn, leo trèo. Hoàng đế trở thành một loại nhân vật trong một trò chơi vừa nghiệt ngã vừa phóng túng của xã hội thể trào phúng. Ngòi bút châm biếm của Nguyễn ái Quốc thật sự tài năng, 'điểm nhẹ mà trúng huyệt'.
Tác giả sử dụng sự nhầm lẫn để làm cho câu chuyện trở nên thú vị hơn. Từ việc một cặp trai gái Pháp nhầm tác giả (tôi) với Khải Định đến việc dân chúng Pháp nhầm tác giả với vị hoàng đế An Nam trong những tình huống khác nhau. Rồi đến cả chính phủ, những kẻ mời Khái Định làm 'thượng khách' cũng không nhận ra nên để tránh thất thế trong ngoại giao, họ phải đối xử với những người Việt Nam yêu nước như đối xử với vị hoàng đế An Nam - tất cả đều là 'vua' và được coi trọng. Chắc chắn rằng không nhiều người tin vào sự nhầm lẫn kỳ lạ đó. Nhưng có vẻ như đó mới là nghệ thuật. Câu chuyện có thể là giả tạo, là đùa cợt nhưng người đọc lại cảm thấy nó như thật đến mức đáng ngạc nhiên. Sự thật là vua Khái Định đi sang Pháp làm nhiều việc ám muội. Nếu không 'vi hành' kiểu đó thì không có sự nhầm lẫn kiểu đó. Câu chuyện vẫn như một bữa tiệc tráng lệ, thực tế nhưng cũng hư cấu, hỗn độn nhưng cũng thật, không có Khai Định trong tác phẩm nhưng Khải Định lại hiện ra một cách rõ ràng. Chính sự biến ảo đó đã làm cho câu chuyện có nhiều lớp nghĩa. Đó thực sự là một mũi tên trúng nhiều mục tiêu.
Để tăng tính hiệu quả của giá trị phê phán, tố cáo, nhà văn đã chọn cách viết thư. Như đã nói, việc viết thư gửi cô em họ có thể dễ khiến người đọc nhầm lẫn rằng đó là thư tình nên họ sẽ theo dõi kĩ lưỡng. Tuy nhiên, đó chỉ là một hiệu ứng phụ. Việc sử dụng cách viết thư đã mang lại một hiệu quả thẩm mỹ cao hơn.
Thứ nhất, qua lối viết, thư, và giọng điệu của tác phẩm có thể linh hoạt thay đổi: Từ lối trình bày khách quan có thể chuyển sang giọng trữ tình thân mật, sau đó có thể liên kết, so sánh, hồi tưởng về quá khứ hoặc vẽ ra tương lai,... Có những lúc đang từ giọng văn mỉa mai châm biếm, tác giả có giọng chua xót, đặc biệt là cái chua xót của một người dân mất nước.
Thứ hai, lối viết thư cho phép người kể chuyện tự do chuyển đổi cảnh vật, đề tài. Từ việc đang ở trong chiếc xe điện ngắm Paris chuyển sang cảnh quê nhà thời thơ ấu, sau đó liên tưởng đến Trung Quốc để nói về việc cải trang vi hành của vua Nghiêu, vua Thuấn, rồi quay về Pháp để nói về vua Pi e,...
Lối viết thư còn cho phép tác giả thể hiện thái độ chủ quan với một loạt giả định, đánh giá. Với giọng điệu chủ quan đó, người đọc cảm nhận rõ thái độ của tác giả đối với các sự việc đang diễn ra.
Một phương pháp đáng chú ý của Vi Hành là gợi ra nhiều hơn là mô tả. Các chi tiết quan trọng được biểu hiện một cách gián tiếp, mục đích là để người đọc hình dung, tưởng tượng, suy đoán, và phát hiện ra những sự trái ngược trong cùng một tình huống: Ông vua cao quý thực chất chỉ là một con rối; chính sách 'bảo hộ' nghe có vẻ nhân đạo nhưng thực chất là bất nhân, tàn bạo. Phong cách viết này tạo ra sự kích thích trí tuệ, khiến người đọc suy ngẫm và tìm hiểu ý nghĩa sâu xa hơn, giải mã những ý nghĩa ẩn dụ. Do đó, tiếng cười trong Vi Hành không chỉ là sự vui vẻ trên bề mặt mà còn chứa đựng sâu sắc ở bên trong. Đó là tiếng cười của trí tuệ sắc sảo, mang đến nhiều màu sắc thẩm mỹ: Từ sự khinh bỉ đối thủ của người cách mạng đến nỗi đau của người dân mất nước; từ chất đậm đà của nụ cười Đông Á đến sự trẻ trung của tuổi trẻ phương Tây; từ sự kế thừa của Nguyễn Khuyến, Tú Xương đến sự phát triển trong tiếng cười khỏe mạnh, lạc quan của người cộng sản.
Với một câu chuyện ngắn vừa phải, mục đích của tác giả là phê phán vị vua thuộc địa và vạch mặt chủ nghĩa thực dân. Cả hai mục tiêu đều được đạt được một cách hoàn hảo nhờ vào tài năng văn chương độc đáo 'như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp' nhưng vẫn giữ được bản sắc của một ngòi bút Việt Nam giàu lòng yêu nước. 'Vi Hành là một tác phẩm nghệ thuật thuộc loại xuất sắc nhất trong việc kết hợp giữa chính trị và văn chương trong sự nghiệp của Bác Hồ' (Nguyễn Đình Chú).
Du lịch của tôi