Phân tích chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu đưa ra 4 bài văn mẫu xuất sắc kèm theo hướng dẫn cụ thể nhất. Với 4 bài văn phân tích quan điểm về phẩm chất chí, Mytour hy vọng sẽ giúp các bạn tự tin hơn trong việc viết bài văn sâu sắc, ấn tượng nhất.
Phẩm chất chí làm trai là một trong những giá trị tư tưởng cao quý từ thời xưa và vẫn giữ nguyên giá trị trong cuộc sống hiện đại. Bởi thực tế, đó là việc sống với mục đích, với lý tưởng. Dưới đây là 4 bài văn mẫu phân tích quan điểm về phẩm chất chí trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, mời các bạn cùng theo dõi.
Dàn bài về phẩm chất chí trong Lưu biệt khi xuất dương
Dàn bài số 1
1. Khai mạc
- Giới thiệu vắn tắt về Phan Bội Châu.
- Tổng quan về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương.
2. Nội dung chính
a. Hai dòng thơ khởi đầu: Quan điểm về phẩm chất chí trong thời đại mới:
- Người nam nhi sống trên thế gian cần phải tạo ra điều “đặc biệt” cho bản thân mình, không nên chấp nhận cuộc sống bình thường, mà phải có những lý tưởng cao cả, những ước mơ và kỳ vọng lớn lao, lòng kiên trì định hình tại bốn phương.
- Dám thách thức chính mình để vượt ra ngoài vùng an toàn, vượt qua mọi khó khăn, hy sinh để đạt được những thành công vĩ đại, tạo nên sự nghiệp xuất sắc, phi thường, đặc biệt mà ít người có thể đạt được.
- “Dám đối đầu với trời cao, làm chủ số phận của mình”. Thể hiện ý chí mạnh mẽ, tư duy kiêu hãnh, mong muốn thách thức, không sợ khó khăn, tự tin đối mặt với vũ trụ, cho thấy lòng dũng cảm của người nam nhi cần phải kiểm soát và tự quyết định vận mệnh cuộc đời một cách quyết định và mạnh mẽ.
b. Hai câu thực tế: “Trong khoảng thời gian một đời/Từ bấy lâu đến khi nào có ai” là ý thức của tác giả về trách nhiệm của người nam nhi đối với quốc gia, dân tộc, là nghĩa vụ công cộng cần phải thực hiện.
- Khoảng thời gian “một đời”, biểu hiện cho một thời kỳ trong cuộc đời con người và gợi lên một thế kỷ biến động của dân tộc.
- “Trong khoảng thời gian một đời” là ý tưởng của tác giả về vai trò quan trọng của cá nhân trong quá trình phục hưng, bảo vệ đất nước.
- “Sau này liệu còn ai?” lại là một câu hỏi mở, thể hiện sự hy vọng, cũng như sự khích lệ của tác giả đối với các thế hệ trẻ và tương lai.
c. Hai câu phê phán: tầm nhận thức mới mẻ của một nhà nho yêu nước, một nhà cách mạng mới trước hoàn cảnh của dân tộc.
- “Non sông đã mất” là sự mất mát của chủ quyền dân tộc, chủ quyền lãnh thổ và sự suy tàn của chế độ phong kiến.
- “Hiền thánh còn đâu nghiên cứu cũng chẳng tiến bộ”, nhìn thẳng vào vấn đề, chỉ ra sự tồi tàn của giáo dục phong kiến, phơi bày rõ nguyên nhân dẫn đến sự suy đồi của đất nước.
- Việc phủ nhận tri thức Nho học, mặc dù đã gắn bó với bao nhiêu thời gian, thực sự là một nỗi đau lớn đối với tác giả, nhưng với nhân phẩm và lý tưởng cao cả, và lòng quyết tâm của một người yêu nước, không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất nước. Nhưng với tư cách là người trí thức, ông phải thể hiện vai trò phục hưng đất nước bằng cách tiến bộ, chứ không phải bằng cách sống trong quá khứ.
=> Nhận ra tinh thần rộng lớn, mạnh mẽ và tự do của một người yêu nước chân chính, sẵn lòng hy sinh tất cả, chịu đựng nỗi đau cá nhân vì lợi ích của dân tộc, của quê hương, để trả lại món nợ danh dự.
d. Hai dòng thơ cuối “Muốn vượt biển Đông như cánh gió/Muôn trùng sóng bạc đưa ra khơi” là biểu tượng của người chí sĩ yêu nước bắt đầu hành trình vượt biển xa xứ để tìm kiếm tri thức mới, để quay về phục vụ Tổ quốc, dân tộc với tư duy cao quý và lòng tự tin không gì có thể lay chuyển.
3. Tổng kết:
Diễn đạt cảm xúc.
Dàn ý thứ 2
1. Bắt đầu
Giới thiệu về Phan Bội Châu và tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương
2. Nội dung chính
- Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' của Phan Bội Châu phản ánh quan điểm về 'chí làm trai' mới mẻ, độc đáo. Điều này được thể hiện rõ qua từng dòng thơ.
- Hai dòng thơ khởi đầu: Chí làm trai của Phan Bội Châu trong bối cảnh đất nước mới với một tâm hồn trách nhiệm.
'Làm người phải đặc biệt trên cuộc đời
Há để trí tuệ tự thay đổi dòng chảy'
+ Phan Bội Châu đã đề xuất quan niệm mới về chí làm người là phải 'đặc biệt'.
→ Đây là vai trò của người nam nhi không chấp nhận sự tầm thường, dám vượt ra khỏi ranh giới an toàn để đạt được thành công.
+ Phan Bội Châu mong muốn thay đổi thế giới, khẳng định không chấp nhận sự đồng thuận vô nghĩa; điều này cũng thể hiện sự kiên quyết, sự tự chủ của con người trước thế giới.
- Hai dòng thơ cụ thể: Tầm quan trọng của cá nhân và quan điểm về danh vọng, trách nhiệm với dân tộc
'Trong suốt một đời phải tồn tại
Sau này muôn đời liệu còn ai'
- Từ 'tớ' là một biểu hiện của Phan Bội Châu, thể hiện ý thức, trách nhiệm của bản thân đối với quê hương trong thời kì khó khăn, biến cố. Một tâm hồn cao quý, sẵn lòng hy sinh cho thời cuộc.
- 'Trong suốt một đời': ám chỉ một thế hệ con người, một cuộc đời.
- 'Sau này muôn đời liệu còn ai': Một câu hỏi không chỉ liên quan đến sự nghiệp cá nhân, danh tiếng của những người yêu nước.
- Hai dòng thơ luận: Quan điểm về tình yêu quê hương
'Núi sông đã chết đất sống chật
Thánh hiền còn đâu học cũng hoài'
+ 'Núi sông đã chết đất sống chật': Đất nước đang chịu sự xâm lấn của quân thù ngoại bang, nhân dân phải sống trong cảnh khốn khổ.
+ Đối với nhà yêu nước Phan Bội Châu, sống trong hoàn cảnh đất nước như vậy thật là đau lòng, tồn tại cũng chỉ như đã mất đi.
→ Quan điểm về sự sống và cái chết, về danh dự này cũng là triết lý theo ông cùng với những người theo đuổi lý tưởng cùng chí hướng suốt cuộc đời: Không chịu sống dưới sự áp bức, bóc lột của kẻ khác, mong muốn tìm kiếm con đường giải phóng cho dân tộc.
+ 'Thánh hiền còn đâu học cũng hoài': Ước mơ của Trạng sư Trình từng là niềm ao ước, ước mơ của bao người; nhưng với Phan Bội Châu, sách vở hiền thánh giờ đây đã không còn ý nghĩa gì nữa.
→ Việc từ bỏ văn học Nho giáo khiến ông cảm thấy đau lòng; nhưng trong hoàn cảnh đất nước đang gặp nguy hiểm thì cần phải vượt qua nỗi đau ấy để tái sinh lại đất nước vì không có nỗi đau nào đau đớn hơn nỗi đau mất nước.
=> Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích của đất nước. Điều này cũng là nguồn gốc của tư tưởng mới, ánh sáng mới tỏa sáng trong những năm đầu của thế kỷ XX.
- Hai câu kết:
'Chấp trận vươn cao Đông hải xa
Một mình sóng bạc hiện tinh phi'.
- 'Chấp trận vươn cao Đông hải xa': Vượt qua mọi khó khăn, vượt biển Đông để tìm kiếm ánh sáng, hướng đi mới cho dân tộc.
- 'Một mình sóng bạc hiện tinh phi': Đương đầu với ngàn sóng lớn. Câu thơ dịch 'muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi' chưa thể hiện rõ ý chí quyết tâm, nét lãng mạn nhiều.
- Kết luận tổng quan:
- Thể thơ thất ngôn bát cú đạo lối văn trang nghiêm, mạnh mẽ tạo nên tinh thần phi thường của người chí sĩ bước ra đi tìm con đường giải phóng dân tộc.
- Chí làm trai của nhà thơ, nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu không chỉ có tác dụng trong thời đại xưa mà còn mang giá trị vượt thời gian, lan tỏa đến nhiều thế hệ người Việt Nam sau này.
3. Tổng kết
Thể hiện suy nghĩ về chí làm trai của Phan Bội Châu.
Phân tích quan niệm về chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 1
Phan Bội Châu là một trong những nhà yêu nước đầu tiên, mở ra con đường cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo hướng dân chủ tư sản. Mặc dù không thành công, nhưng ông vẫn là một biểu tượng về lòng yêu nước và ý chí đấu tranh kiên cường, không khuất phục. Năm 1904, ông thành lập Duy Tân hội cùng các đồng môn của mình. Năm 1905, hội khuyến khích phong trào Đông Du, gửi thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập để chuẩn bị cho cách mạng và hưởng ứng sự hỗ trợ từ các nước bên ngoài. Trước khi ra đi, Phan Bội Châu viết bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ biệt bạn bè, đồng chí.
Với ngôn từ lãng mạn, sâu sắc và cuốn hút, Lưu biệt khi xuất dương đã miêu tả sự lãng mạn và hùng vĩ của nhà cách mạng Phan Bội Châu, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo, đầy nhiệt huyết và khát khao cháy bỏng trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước.
Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu đã rõ ràng thể hiện chí làm trai của một nhà cách mạng:
“Làm trai phải đặc biệt trên đời
Há để tinh thần tự thay đổi dòng chảy”,
“Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Ngàn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”.
Ở thời điểm đó, chí làm trai là “di dời núi, lấp biển”, là khao khát xây dựng một sự nghiệp vĩ đại, để lại dấu ấn trong lòng người.
Trong thời đại hiện nay, chí làm trai của thanh niên đã có sự thay đổi do thời cuộc biến đổi. Thanh niên ngày nay sống trong một thế giới yên bình và toàn cầu hóa. Để tồn tại và có ý nghĩa, mỗi người cần có việc làm, kiến thức, lòng dũng cảm và khả năng thích nghi với sự thay đổi, cùng với phẩm chất và đạo đức tốt...
Những bài hát cơ bản thường là niềm khao khát của thanh niên muốn gìn giữ những ước mơ lớn lao, thành đạt trong công việc hoặc trở nên nổi tiếng... Mục đích của họ là xây dựng cuộc sống cá nhân và đóng góp vào sự phát triển và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào hòa bình thế giới.
Tuy nhiên, ý chí và khao khát thành công trong thời đại hiện nay không chỉ dành riêng cho nam giới. Trong thời kỳ cổ xưa, do tư duy 'trọng nam kinh nữ' nên phụ nữ thường bị coi thường hoặc không được tham gia vào những hoạt động 'quyền lực'. Ngày nay, nam nữ được coi trọng như nhau, việc tham gia vào các hoạt động 'quyền lực' không còn là trách nhiệm độc quyền của nam giới. Thực tế, có nhiều phụ nữ đã thành công ở nhiều lĩnh vực như khoa học, nghệ thuật, chính trị-xã hội...
Ý chí và khao khát thành công là một truyền thống tốt đẹp từ thời xa xưa và vẫn được coi trọng trong cuộc sống hiện đại. Bởi vì nó là việc sống với lí tưởng và mục tiêu. Do đó, mỗi cá nhân, đặc biệt là thanh niên, cần phải xác định cho mình một mục tiêu, một cách sống có ý nghĩa. Đó mới là cách sống đẹp và ý nghĩa.
Ý chí và khao khát thành công trong Lưu Biệt Khi Xuất Dương - Mẫu 2
Trong 'Lưu Biệt Khi Xuất Dương', việc khẳng định ý chí và quyết tâm thành công, làm nên sự nghiệp lớn để cứu nước cứu dân được coi là vô cùng quan trọng. Đó là sự quyết tâm cao cả và những ý tưởng mới lạ của nhân vật chân thành khi ra nước ngoài để tìm đường cứu nước.
Chí lớn mà nhà thơ ca ngợi trong bài thơ đầu tiên là 'phải có sự đột phá, khác biệt trong cuộc sống'. Đó là một tư duy sống cao cả, một khao khát lớn. Người đàn ông phải thực hiện những điều lớn lao, phi thường, phải tự quyết định và hành động, không để cho số phận tự định đoạt. Nhà thơ biến từ 'ta' thành 'tớ'. 'Tớ' phản ánh tinh thần trẻ trung, tự tin. Hai dòng thơ trên dường như tự hào mình, nhưng thực ra là cách thể hiện sâu sắc về bản thân tích cực. Bản thân này không chỉ cam kết với hiện tại, với tương lai của đất nước mà còn cam kết với lịch sử. Đó là tư thế của những người có chí lớn, muốn đạt được những thành tựu vĩ đại trong lịch sử.
Chí lớn mà cụ Phan tôn vinh trong bài thơ chắc chắn khiến chúng ta kính phục về những con người nhận thức được trách nhiệm của mình đối với lịch sử.
Mỗi người sống đều phải gắn bó với quê hương, dân tộc, biết hy sinh vì dân tộc. Nhân vật trữ tình đang nói về bản thân mình nhưng thực chất là tiếng nói của một tầng lớp, một thế hệ và hơn nữa là của toàn dân tộc. Tác giả hướng tầm nhìn, tư duy của mình về phía tương lai thay vì sống trong quá khứ. Điều này là một tiến bộ, qua bài thơ chúng ta không chỉ hiểu ý nghĩa mà còn học hỏi từ thực tế cuộc sống của mình. Dòng thơ kết thúc với hai câu tuyệt đẹp, tràn đầy cảm xúc lãng mạn. Con đại bàng đã vươn cánh bay ra biển lớn, bay vào thời đại 'Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi'.
Bằng thể thơ thất ngôn bát cú theo đường luật, bằng chữ Hán, với phong cách trang nghiêm, hùng hậu, đã thể hiện một chí lớn phi thường, không chịu số phận, quyết định đi tìm cách cứu nước. Điều này không chỉ còn là lời nói mà còn là hành động của ông, vượt qua biển Đông. Bài thơ là một trang anh hùng ca, kêu gọi những người muốn cứu nước, truyền đạt hy vọng và khích lệ, không chỉ với thế hệ trẻ ở thời điểm đó mà còn với những thế hệ sau.
Phan Bội Châu (1867 - 1940) là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của các phong trào Duy Tân, Đông Việt Nam quang phục hội đầu thế kỉ XX. Ông được mệnh danh là 'người anh hùng, thiên sứ', được 25 triệu người dân tôn kính (theo Nguyễn Ái Quốc). Cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng ca ngợi Phan Bội Châu: 'Tiếng giọng truyền đi như một cây gậy vạch trời gọi thức tỉnh - giữa bầu trời không gian mênh mông - tay cầm bút nghiên lướt như cánh chim bay - giấy trắng như mưa rơi, sấm chớp nổ'.
Năm 1905, khởi đầu của phong trào của Phan Bội Châu khi đi ra Trung Quốc, Nhật Bản để tìm con đường cứu nước. Trong tâm trạng chia tay với các bạn đồng đội trong Hội Duy Tân, Phan Bội Châu viết bài 'Lời chia tay khi ra nước ngoài' bằng chữ Hán.
Mở đầu bài thơ, tác giả trình bày quan điểm về tinh thần của đấng nam nhi: “Sinh ra là con trai nhưng không yếu đuối, Khẳng định sẽ thể hiện sự thông minh của bản thân”. Tôn Quang Phiệt phiên dịch như sau:
“Làm con trai phải có điều đặc biệt trên cuộc đời
Liệu có thể thể hiện sự thông minh của bản thân một cách tự nhiên không?”
Phan Bội Châu nêu lên quan điểm về tinh thần làm con trai mà nhiều nhà nho nổi tiếng đồng tình. Nguyễn Công Trứ, trong bài thơ “Tinh thần của đấng nam nhi” cũng đã nói: “Nam nhân thông minh nhất, Không yếu đuối trong trận đấu với thế giới”. Làm người con trai trên thế giới này phải thực hiện những điều kỳ lạ, kỳ diệu để giúp ích cho xã hội, giúp người dân, giúp quốc gia. Làm con trai đòi hỏi phải dũng cảm và quyết tâm, vượt qua mọi thử thách:
Liệu có thể thể hiện sự thông minh của bản thân một cách tự nhiên không?
Phải là một người vĩ đại trên thế giới này mới dám phát ngôn như vậy. Sức mạnh nội tại phi thường. Con người muốn tham gia vào sự diễn ra của vũ trụ. Câu hỏi 'Liệu có thể thể hiện sự thông minh của bản thân một cách tự nhiên không?' không chỉ là một khẳng định mà còn là một lời đối thoại với tất cả những người đàn ông trên thế giới này. Nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, về tác động của con người lên vũ trụ, là điều vô cùng tích cực, là một cách mạng. Câu thơ đánh thức sức mạnh bên trong mỗi con người để họ tham gia vào việc cải tạo tự nhiên, cải thiện xã hội.
Sau khi thể hiện quan điểm về tinh thần của đấng nam nhi và về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, tác giả nói về trách nhiệm của mình với thời đại của mình: “Trong suốt một thế kỷ cần phải có tôi, Một khi đã qua, liệu có ai thay thế được?” Hai câu thơ đó được dịch như sau bởi Tôn Quang Phiệt:
“Trong vòng một thế kỷ, thế giới cần tới tôi
Sau này, liệu có ai có thể thay thế tôi không?
Trong một nền văn học không coi trọng cái 'tôi', khi một khái niệm 'tôi' xuất hiện một cách mạnh mẽ, thật sự là điều đặc biệt!
'Trong suốt một thế kỷ cần phải có tôi'
Hiểu biết về sự tồn tại của cái 'tôi', trách nhiệm của cái 'tôi' đối với thời đại không khác gì một tia sáng giữa đêm tối, một cây thông giữa tuyết phủ. Đâu phải cái 'tôi' chỉ muốn thoải mái mà là cái 'tôi' hành động, cái 'tôi' tham gia vào sự 'di chuyển' của vũ trụ. 'Trong thời kỳ tăm tối của quốc gia, nhận ra bản thân như thế, thật sự là một điều kiên cường, là một điều đẹp đẽ vô cùng, cũng như có được một ý thức lưu danh mãi mãi thông qua việc cứu nước, thật cần thiết và cao cả vô cùng' (Nguyễn Đình Chú).
Về mối liên hệ giữa con người và vĩnh hằng, tác giả đặt ra câu hỏi 'Sau này, liệu có ai có thể thay thế tôi không?' (Trong hàng ngàn năm sau này, liệu có ai?) Đặt câu hỏi nhưng thực sự là để khẳng định. Tác giả tin tưởng vào chính mình, cũng như tin tưởng vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ của Phan Bội Châu kích thích tâm trí của người đọc, thúc đẩy ý thức trách nhiệm, khuyến khích họ hành động, tham gia vào sự thay đổi tự nhiên, thay đổi xã hội. Đó là thơ của một nhà cách mạng.
Và khi nói về hai câu trên, tác giả càng lên tiếng về mối quan hệ giữa con người và quê hương, giữa cuộc sống thực và tri thức:
'Giang sơn đã mất đi tính sống
Hiền thánh tỏ ra vô ích đến cả thư sinh”
(Dù non sông đã mất đi sức sống
Hiền thánh vẫn cứ lạc hậu trong học hành.)
Tác giả sử dụng kỹ thuật nhân hóa 'non sông đã chết' khiến chúng ta cảm nhận 'giang sơn' (non sông) như một sinh linh, điều đó thực sự làm đau lòng.
“Non sông đã qua đời sống lại với sự xấu hổ”
Nhiều nhà Nho thời đại cũng đã nói về nỗi xấu hổ mất nước, nhưng chưa ai phát biểu một cách rõ ràng, quyết đoán như vậy. Liên kết giữa sự sống và cái tự hào của non sông với quê hương không còn là điều nghi ngờ, Phan Bội Châu thực sự là một nhà yêu nước vĩ đại.
Cả những tác phẩm của các vị thánh hiền cũng không thể tẩy sạch đi vết nhơ nô lệ:
“Còn đâu học hành khi thánh hiền cũng đã tiêu tan?”
Câu thơ gốc thể hiện cảm xúc mãnh liệt hơn “Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”, (Khi thánh hiền đã ra đi, việc đọc sách cũng chẳng còn ý nghĩa gì). Viết như vậy, đúng như lời của cụ Huỳnh Thúc Kháng: “đầy mặt giấy mưa tuôn sấm nổ”. Không phải là cụ Phan phủ định sách của thánh hiền, mà là cụ Phan nhận ra cái đạo của thánh hiền một cách sáng suốt, cái sáng suốt của một nhà cách mạng. Có ông Khổng, ông Mạnh, ông Lão nào dạy các đệ tử ngồi “học” sách của quý vị trong khi dân tộc mất nước và bị chế ngự đâu?
Tóm lại, từ quan niệm sống “trong suốt một thế kỷ cần phải có tôi”, trong hai câu cuối, tác giả tự đặt mình vào tình thế phải ra đi cứu nước.
Hai câu cuối cùng, tác giả hoàn toàn thể hiện chủ đề “ra đi để cứu nước”
“Ước ao vượt lên sóng gió Đông Hải
Bay về phía nơi hoàng hôn trắng xoá.”,
(Ước mơ vượt qua sóng biển Đông theo cơn gió
“Biển Đông muôn sóng trắng bạc chào đón ra khơi).
Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn vượt qua biển Đông theo cơn gió”, không gian rộng lớn của biển Đông kết hợp với tinh thần lớn lao của nhà cách mạng. Câu thơ dịch xuất sắc, phản ánh tinh thần chân chính của bản gốc. Tuy nhiên, câu kết “Biển Đông muôn sóng trắng bạc chào đón ra khơi” thể hiện tình cảm của đất nước đối với những người ra đi, không khá sát với nguyên bản.
“Ngàn sóng bạc trắng xoá bay cao”
(Ngàn đợt sóng trắng bạc cùng bay lên)
Hình tượng thơ hiện diện trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sôi sục trắng xóa, đặc biệt là không gặp bờ mà “cùng bay lên”. Hình ảnh vừa tráng lệ vừa lãng mạn thể hiện tinh thần phấn khởi, nhiệt huyết, và sự thăng hoa của nhà thơ kiêm cách mạng.
Để hiểu rõ tâm hồn của nhà cách mạng vĩ đại Phan Bội Châu mà không đọc hàng ngàn trang sách của ông, thì tốt nhất là đọc bài thơ “Xuất dương lưu biệt”. Một bài thơ nhỏ có thể cho ta thấy tinh thần nam nhi của anh hùng, ý chí lớn lao muốn dời non lấp bể, trách nhiệm đối với lịch sử và dân tộc, quan niệm sống chết và vinh nhục, cũng như ước mơ vĩ đại của một nhà văn muốn cứu dân cứu nước.
“Mượn Đông du thăm hỏi bạn đồng lòng, Hương Cảng, Hoành Tân, trải dài đường xa.
Ba tấc lưỡi, một gươm, một súng, kẻ cầm quyền đều lo sợ cảm gió.
Một ngòi lông, một cây trống, của dân chủ sáng bừng đèn đường.”
Đó là mấy dòng Phan Bội Châu viết về Phan Châu Trinh, nhưng ta thấy hình ảnh của cả hai ông, hai tinh thần yêu nước nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, ở giai đoạn đầu của thế kỷ này.
Bài thơ được tạo ra trong những năm đầu của thế kỷ XX, khi đất nước ta rơi vào bàn tay của thực dân Pháp. Tiếng trống Cần Vương đã im bặt, thể hiện sự bế tắc của phong trào cứu nước theo tư tưởng phong kiến. Phan Bội Châu, một biểu tượng của thế hệ cách mạng mới, quyết tâm tìm kiếm con đường mới cho dân tộc, vượt qua những giáo lý cũ để đón nhận tư tưởng mới, mong muốn giải phóng dân tộc. Phong trào Đông du mang theo bao nhiêu hi vọng...
Bài thơ phản ánh mạnh mẽ tư tưởng và tư thế của Phan Bội Châu trong hành trình tìm đường cứu nước. Hai câu đầu tiên thể hiện rõ nhận thức của nhà thơ về chí nam nhi - một nền tảng cho mọi hành động:
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Thực tế, ý niệm về chí nam nhi không phải là mới mẻ trong văn học. Trước đó, trong thơ trung đại, chúng ta đã thấy các nhà thơ như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nói về điều này. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là trong bài thơ của Phan Bội Châu, ý tưởng về lý tưởng nhân sinh đã mất đi tính mới mẻ. Điều này được nhà thơ thể hiện bằng cách khẳng định ý chí của mình: làm người phải làm những điều mới lạ, không để cho số phận 'tự chuyển dời'. Điều này là một tư duy mạnh mẽ, cách mạng đối với người có nguồn gốc từ cánh cửa của Khổng sư Trình. Trong hai câu tiếp theo, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của mình giữa vũ trụ và cuộc sống:
Trong suốt trăm năm, tớ cần tồn tại,
Sau này, mãi mãi, liệu có ai khác?
Nhận thức về bản thân đã hiện lên rõ ràng, không do dự, không e ngại. Đó là hình ảnh của một người tự tin đứng giữa cuộc đời, ý thức về sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do đam mê khao khát thành công. Hai câu tiếp theo nói về sự thực đau lòng:
Non sông đã qua cõi chết vẫn chịu nhục nhã,
Người hiền thánh đã mất vẫn còn loay hoay giữa sách vở.
Tới hai câu này, ta cũng cảm nhận được ý chí làm trai với khao khát vươn lên theo một hướng mới, đó là nhận thức về non sông mất chủ quyền, không còn “hiền thánh” thần thánh như trước. Hai câu thơ như một phê phán quyết đoán về thực trạng lịch sử. “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” – đây thực sự là một dòng thơ thể hiện sự sôi nổi của Phan Bội Châu, bày tỏ cái nhìn sắc sảo của ông về thời kỳ.
Hai câu kết của bài thơ đầy sức mạnh và ý thức về sự ra đi mạnh mẽ, đầy dũng cảm:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Ngàn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
“Vượt biển Đông” có vẻ khá cầu kỳ nhưng đó là một hành động sẽ diễn ra trong tương lai. Người ra đi với niềm hứng khởi mãnh liệt, được “ngàn trùng sóng bạc” chào đón như một sự kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc hành trình hùng vĩ này.
Xuất dương lưu biệt là như một bản ca khúc của những người ra đi. Mặc dù chủ đề mang tính truyền thống, nhưng ý tưởng lại mang đậm dấu ấn của sự mới mẻ. Bài thơ với tinh thần lạc quan đã khiến cho cảm xúc trong đó trở nên sâu sắc, gợi lên sức mạnh mãnh liệt. Đây là bức tranh vẽ về một anh hùng không biết mệt mỏi trong cuộc hành trình cứu nước.
Chí làm trai trong Lưu biệt khi ra đi - Mẫu 3
Xuất dương lưu biệt là bài thơ khẳng định ý chí làm trai và quyết tâm xây dựng sự nghiệp lớn để cứu nước cứu dân. Đó là tinh thần quyết liệt và ý tưởng mới lạ của Phan Bội Châu.
Cái chí làm trai mà nhà thơ đề cập trong Lưu biệt trước hết là “phải lạ ở trên đời”. Đó là một lý tưởng sống, một khao khát lớn lao. Người đàn ông phải thực hiện những việc lớn lao, phải tự mình thay đổi số phận. Nhà thơ chuyển từ 'ta' thành 'tớ'. 'Tớ' thể hiện sự lạc quan, trẻ trung. Hai câu thơ trên có vẻ hơi ngạo mạn nhưng thực ra đã thể hiện sâu sắc về cá nhân tích cực của tác giả. Cá nhân này không chỉ cam kết trách nhiệm với hiện tại và tương lai của đất nước mà còn xác nhận nghĩa vụ với lịch sử. Đó là tư thế của một người có tinh thần quyết liệt.
Cái chí làm trai mà Phan Bội Châu nhấn mạnh trong bài thơ khiến chúng ta ngưỡng mộ những người hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong lịch sử, với đất nước.
Mỗi người sống đều phải liên kết với đất nước, với dân tộc, biết hy sinh cùng dân tộc. Tác giả thể hiện một góc nhìn đại diện cho một tầng lớp, một thế hệ và cả dân tộc. Quan điểm và suy nghĩ của tác giả hướng về tương lai, không phải là sự hoài niệm. Điều này thể hiện sự tiến bộ và là bài học áp dụng vào cuộc sống từ bài thơ Xuất dương lưu biệt.
Kết thúc bài thơ bằng hai câu thơ tuyệt đẹp, tràn đầy cảm hứng lãng mạn. Con đại bàng đã vươn cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại mới.
Bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, viết bằng chữ Hán, với phong cách trang nghiêm, hào hùng và mạnh mẽ, tác giả đã truyền đạt một tinh thần phi thường, quyết tâm không làm nô lệ, đi tìm đường cứu nước. Bài thơ không chỉ là lời nói mà còn là hành động vượt biển Đông của Phan Bội Châu. Đó là một khúc ca hùng tráng kêu gọi ra đường cứu nước, đầy giá trị khích lệ và tuyên truyền cách mạng, không chỉ dành cho thế hệ thanh niên ở thời điểm đó mà còn là lời nhắn nhủ cho các thế hệ sau này.
Làm trai phải tỏa sáng trên cuộc đời
Không để cuộc sống tự định đoạt
Chỉ có những bậc hào kiệt trên thế gian mới có thể phát ngôn như vậy. Họ có một nội lực mạnh mẽ, phi thường. Con người mong muốn tham gia vào sự vận động của vũ trụ. “Há để càn khôn tự chuyển dời” không chỉ là một câu hỏi tự thẩm mà còn là một khẳng định, muốn đối thoại với tất cả những người đàn ông trên thế gian này. Sự nhận thức về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, về tác động của con người đối với vũ trụ là rất tích cực, cách mạng. Câu thơ này thúc đẩy nội lực trong mỗi con người tỉnh thức để họ tham gia vào việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Sau khi thể hiện quan niệm về chí nam nhi và mối liên kết giữa con người và vũ trụ, tác giả nhắc đến trách nhiệm của bản thân với thời đại của mình: “Trong khoảng trăm năm cần có tớ, Sau này muôn thuở, há không ai?” Hai dòng thơ này, dịch theo Tôn Quang Phiệt, nhấn mạnh vào ý thức cá nhân và trách nhiệm cá nhân với thời kỳ của mình.
Trong khoảng trăm năm, tớ phải tồn tại.
Sau này, liệu có ai nhớ tớ?
Nhận thức về sự tồn tại của cái “tôi”, trách nhiệm của “tôi” đối với thời đại như vậy giống như một ngọn lửa giữa đêm tối, một cây thông giữa băng tuyết. Không phải là “tôi” chỉ muốn hưởng thụ, mà là “tôi” hành động, “tôi” tham gia vào sự “chuyển dời” của “càn khôn”. 'Giữa cuộc sống u tối của đất nước vào thời điểm đó, có một ý thức về “tôi” như vậy thật sự kiên cường, đẹp đẽ.
Về mối quan hệ giữa con người và vĩnh cửu, tác giả đặt câu hỏi “Sau này muôn thuở, liệu có ai?” không phải để hỏi mà để khẳng định. Phan Bội Châu tin vào bản thân mình và càng tin vào cộng đồng, vào dân tộc. Thơ của Phan Bội Châu xâm nhập vào tâm can của người đọc, khích lệ ý thức trách nhiệm của từng cá nhân, thúc đẩy họ hành động, thúc đẩy sự thay đổi tự nhiên, sự thay đổi xã hội. Đó chính là bản chất của thơ của một nhà cách mạng.
Chuyển sang hai câu kết, ông nói rõ hơn về mối quan hệ giữa con người và non sông, đất nước, giữa cuộc sống thực tại và triết lý của các thánh hiền: Xuất dương lưu biệt:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh đã đi đâu, tri thức vẫn còn mãi.
Phan Bội Châu sử dụng kỹ thuật nhân hóa “non sông đã chết” để làm cho chúng ta cảm thấy “giang sơn” (non sông) như một sinh linh, điều này thật đau lòng.
Non sông đã chết sống thêm nhục
Nhiều nhà Nho thời kỳ cũng đã phản ánh về nỗi nhục mất nước, nhưng chưa ai diễn đạt một cách toàn diện, sâu sắc như thế. Liên kết sự sống chết của mỗi người với sự danh dự của non sông đất nước, không còn nghi ngờ gì nữa, Phan Bội Châu thật là một nhà yêu nước vĩ đại. Sách vở của các thánh hiền cũng không thể xóa sạch đi dấu vết của nô lệ: Xuất dương lưu biệt:
Hiền thánh đã đi đâu, tri thức vẫn còn mãi.
Không nên hiểu là Phan Bội Châu bác bỏ sách của các thánh hiền, mà nên hiểu rằng ông đã tuân thủ triết lý của các thánh hiền một cách thông minh, sáng suốt, như một nhà cách mạng.
Tóm lại, từ quan niệm sống “ư bách niên trung tu hữu ngã”, trong hai câu luận, tác giả tự đặt mình vào tình thế phải xuất dương cứu nước.
Hai câu kết, tác giả thể hiện đầy đủ chủ đề của bài thơ Xuất dương lưu biệt
“Nguyện đến trường phong Đông hải xưa
Trời xanh biển lạc một tấc dài,”
(Muốn qua biển Đông theo cánh gió
Vạn dặm sóng bạc tiễn ra khơi).
Hình ảnh đẹp, lãng mạn. “Muốn qua biển Đông theo cánh gió”, không gian rộng lớn của biển Đông kết hợp với chí lớn của nhà cách mạng. Câu thơ dịch rất xuất sắc, phản ánh tinh thần của nguyên tác.
Hình tượng thơ hiện lên trước mắt ta hàng ngàn đợt sóng sục sôi, đặc biệt là không vỗ vào bờ mà “bay lên một tấc dài”. Hình tượng này vừa kỳ vĩ vừa thơ mộng thể hiện được tinh thần phấn khởi, nhiệt huyết, thăng hoa của nhà thơ – nhà cách mạng. Xuất dương lưu biệt
Muốn hiểu về Phan Bội Châu mà không đọc hàng ngàn trang thơ của ông, trước hết chỉ cần đọc bài thơ Xuất dương lưu biệt. Một bài thơ nhỏ cũng cho chúng ta thấy được chí nam nhi của anh hùng, thấy được ý chí lớn muốn làm nên điều lớn lao, thấy được ý thức trách nhiệm của cái “tôi” đối với lịch sử, với dân tộc, thấy được quan niệm sống chết, vinh nhục, thấy được hoài bão cao cả của một nhà văn chiến sĩ muốn cứu dân cứu nước. Xuất dương lưu biệt
Tình hình khi bài thơ này ra đời là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước chúng ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã im lặng, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng…
Xuất dương lưu biệt là một khúc hát giục giã lên đường. Đề tài này có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.
Chí làm trai trong Lưu biệt khi xuất dương - Mẫu 4
Những năm đầu thế kỷ XX, đất nước chúng ta một lần nữa lại bị ngoại bang xâm lược; những cuộc kháng chiến nổ ra khắp trong cả nước. Người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là lá cờ đầu kháng chiến, ông không chỉ có con đường cứu nước mới mẻ mà ông còn để lại một kho tàng văn học lớn, có sức cổ động mạnh mẽ, trong đó không thể không nhắc đến bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương'. Bài thơ không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc mà còn nói lên 'chí làm trai' khác biệt.
Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905 giữa tình hình đất nước đang chìm trong ách kìm kẹp của chế độ thực dân. Là người chủ trương trong phong trào Duy Tân, ông tìm đường cứu nước bằng cách sang Nhật. Trước khi xuất dương, ông đã làm bài thơ để gửi tặng những người bạn của mình, cũng để bày tỏ tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc của chính bản thân.
'Nam tử sinh ra phải có khí như vậy,
Quyết tâm chắc chắn, không để số phận tự do bay đi'.
(Làm người con trai, phải có sự lạ và độc đáo trong cuộc sống,
Liệu có thể tự do xoay chuyển số mệnh của mình?).
Trong thời phong kiến, việc trở thành người đàn ông là phải lo cho quốc gia, trị vì gia tộc và thống nhất dân chúng. Nhưng với Phan Bội Châu, ông muốn làm điều gì đó đặc biệt, không giống ai, và có khả năng thay đổi số phận của mình.
Nếu Nguyễn Công Trứ chỉ nói về việc 'Phải làm người đàn ông quyết tâm mạnh mẽ từ phương nam đến phương bắc, từ phương tây đến phương đông/ Để giơ cao tinh thần vượt qua biển lớn', và Phạm Ngũ Lão nói về 'Người đàn ông muốn hướng tới danh vọng và sự nổi tiếng/ Truyền bá tri thức trong cả thế giới', thì Phan Bội Châu lại muốn thay đổi số phận của mình, không chấp nhận sự ràng buộc từ số phận đã được quyết định. Ông muốn kiểm soát vận mệnh của mình, vượt ra khỏi ranh giới an toàn, tìm kiếm một cơ hội mới. Nhà cách mạng yêu nước Phan Bội Châu đem lại quan niệm về sức mạnh của quyết tâm trong thời đại mới, tạo ra một ý tưởng to lớn, mạnh mẽ. Đó cũng là việc khẳng định sức mạnh của con người giữa vũ trụ rộng lớn.
'Trong suốt một thế kỷ, chỉ cần có tôi mà thôi,
Liệu sau này có ai hiểu được không?)'
(Trong trăm năm dài, có tôi là đủ,
Liệu sau này sẽ còn ai hiểu tôi?)
Hai dòng thơ chân thực trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' của Phan Bội Châu tiếp tục khẳng định tinh thần quyết tâm của người đàn ông. Không chỉ là việc 'xoay chuyển số phận' mà quyết tâm của người đàn ông cũng cần được kết hợp với trách nhiệm đối với dân tộc.
Từ 'tớ' được coi là biểu hiện của chính tác giả, một ý thức trách nhiệm trước thời đại. Từ 'tớ' trong dòng thơ cũng tạo ra sự mạnh mẽ, bộc lộ một cá tính tích cực. Bằng việc đặt ra câu hỏi 'Sau này muôn thuở há không ai?', Phan Bội Châu không chỉ làm rõ cái tôi trách nhiệm với quê hương mà còn thể hiện lòng tin, khát vọng vào 'một trăm năm' tương lai, ý thức trách nhiệm của mỗi người với dân tộc. Tác giả không chỉ hướng về quá khứ mà còn là hiện tại và tương lai. Điều này cũng là bài học dành cho thế hệ trẻ của quê hương, luôn phải có một cá nhân mạnh mẽ, sẵn sàng hy sinh cho dân tộc.
Nếu trước đây cổng Trạng sân Trình là biểu tượng của khát vọng, niềm tự hào của nhiều người; đặc biệt là với nam nhi, đó là con đường để xây dựng sự nghiệp, thì bây giờ Phan Bội Châu chỉ còn biết thở dài:
'Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài'.
'Non sông đã chết' - câu thơ đau lòng sâu sắc! Quê hương, non sông giờ đây bị đè bẹp dưới bước chân của kẻ thù ngoại xâm. Đối với những người theo Nho giáo như ông, không gì đau đớn hơn khi thấy sách vở, danh lợi cũng không thể bảo vệ được đất nước. 'Hiền thánh còn đâu học cũng hoài' không phải là ông từ chối giá trị của văn hóa thánh hiền, mà là trong bối cảnh ấy, ông chọn lối giải phóng đất nước, thấy giá trị trong việc học hành và danh vọng trong thời đại đó ra sao.
Nhà chính trị Phan Bội Châu thật sự là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn. Với ông, không gì đau lòng hơn là thất thế của tự do dân tộc. Ông sẵn lòng hy sinh lợi ích cá nhân để tìm kiếm lợi ích chung cho cả dân tộc. Trong những năm đầu của thế kỷ XX, điều này thật sự là một quyết định dũng cảm, một trở ngại mới, một ánh sáng mới.
'Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi',
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
'Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Cánh buồm vươn ra giữa biển cả rộng lớn tạo nên bức tranh lãng mạn không gì sánh được. Ý chí của nhà lãnh đạo yêu nước Phan Bội Châu cũng như con thuyền đó, một mình chinh phục biển khơi, đương đầu với sóng gió, nhưng với tâm hồn kiên định và không ngại khó khăn.
Câu thơ 'thiên trùng bạch lãng nhất tề phi' khi dịch sang ngôn từ không trung thực với bản gốc, tạo nên hình ảnh bay bổng, lãng mạn hơn; làm giảm đi sự quyết tâm, ý chí kiên định trong việc ra đi cứu nước. Sự đối lập giữa con người và vũ trụ tạo nên một tấm tranh sử thi, một bức hình hoành tráng với khát vọng vươn lên, mở ra một không gian mới. Câu thơ cũng khẳng định lòng quyết tâm, tự tin về tương lai.
Những bài thơ của nhà lãnh đạo ái quốc Phan Bội Châu với hình ảnh người nam nhi muốn phản lại quy luật tự nhiên, cá nhân và trách nhiệm với Tổ quốc. Bằng thể thơ truyền thống và ngôn ngữ mạnh mẽ, ông tạo ra hình ảnh ấn tượng của người lãnh đạo ra đi cứu nước. Bài thơ đưa ra một tinh thần mới, một cảm hứng mới trong cuộc chiến chống lại sự thống trị của Pháp ở đầu thế kỷ XX.
Tinh thần quyết tâm của Phan Bội Châu không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà còn trong thế kỷ XXI và sau này, đó là một bài học, một gương mẫu cho các thế hệ về tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm; biết đương đầu với khó khăn, thử thách; từ bỏ cá nhân để phục vụ Tổ quốc.