
Phân tích phần 1 của bài Phú sông Bạch Đằng mang lại cho người đọc nhiều cảm xúc khác nhau, từ tự hào về chiến tích lịch sử của dân tộc đến nỗi buồn tiếc nuối về những giá trị lịch sử đang phai mờ dần. Dưới đây là 7 ví dụ văn mẫu phân tích phần 1 của bài Phú sông Bạch Đằng, mời bạn đọc cùng tham khảo.
Dàn ý phân tích phần 1 của bài Phú sông Bạch Đằng
1. Mở Đầu
- Giới thiệu về tác giả Trương Hán Siêu
- Giới thiệu về tác phẩm và hướng dẫn đến phần đầu bài 'Bạch Đằng giang phú': Bài phú nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam thời Trung Đại. Trong bài phú này, và đặc biệt là đoạn 1, Trương Hán Siêu không chỉ tôn vinh truyền thống anh hùng và kiên cường của dân tộc mà còn thể hiện lòng tự hào về vẻ đẹp của quê hương và đất nước.
2. Nội Dung Chính
- Thông tin về nhân vật 'khách':
- Là phần tử của tác giả
- Là người có lòng dũng cảm và tinh thần phiêu lưu
- Hành trình khám phá của nhân vật 'khách':
- Mục Tiêu của Hành Trình
- Các Địa Danh Được Đề Cập
- Phong Cảnh Tuyệt Vời Trên Sông Bạch Đằng:
- Vẻ Đẹp Tuyệt Vời, Lãng Mạn
- Vẻ Đẹp Huyền Bí, Đầy Ấn Tượng
- Tâm Trạng và Cảm Xúc của Người 'Khách' Trước Phong Cảnh Thiên Nhiên Của Sông Bạch Đằng:
- Tự Hào về Vẻ Đẹp Quê Hương và Đất Nước
- Bi Thương và Tiếc Nuối
3. Kết Luận
- Ý Nghĩa của Phần Mở Đầu Bài 'Bạch Đằng Giang Phú'
Qua phần mở đầu của bài 'Bạch Đằng Giang Phú', Trương Hán Siêu đã mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc khác nhau, từ lòng tự hào về chiến công vang dội của dân tộc đến sự tiếc nuối về những giá trị lịch sử dần phai mờ.
Cảm Nhận về Phần Mở Đầu của Bài Thơ Phú Sông Bạch Đằng - Mẫu 1
Giáo Sư Nguyễn Đình Chú đã viết rằng 'Giá trị của bài phú không chỉ làm sống lại hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng tỏ chân lý của dân tộc suốt hàng thế kỷ'. Đúng thật, bên dưới bức tranh chiến thắng lẫy lừng của trận Bạch Đằng, bài phú đã tôn vinh lòng tự hào dân tộc và những tư tưởng cao quý. Phần mở đầu không chỉ kể lại chiến công hùng hồn mà còn là biểu tượng của sự kiêu hãnh văn hóa dân tộc.
Xét về cấu trúc của bài phú cổ điển, ta thấy nó có tính chất tương tác, là sự kết hợp giữa hai nhân vật chính: chủ và khách. Khách là người đam mê du lịch, hiểu biết rộng và đặc biệt là yêu thương lịch sử dân tộc. Khách đến sông Bạch Đằng không chỉ vì tình yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi từng chứng kiến chiến công vĩ đại, và mong muốn tìm hiểu thêm về những trang sử anh hùng của dân tộc, theo dấu chân của những anh hùng thời xưa như Tử Trường (một sử gia nổi tiếng Trung Quốc thời Hán). Chủ là những người già ở bên bờ sông Bạch Đằng mà khách gặp, họ mang trên vai trọng trách lớn lao được dân tộc giao phó. Cũng có thể nhân vật chủ là nhân vật hư cấu, được tạo ra để kích thích cảm xúc và đẩy tình cảm đến đỉnh điểm và toàn diện nhất.
Bài phú mở đầu với hình ảnh của người du khách - “giong buồm gió lênh đênh, nhặt trăng bể mê mải”, lãng mạn và đầy tinh tế. Chính nhân vật này đã quay ngược thời gian trở lại quá khứ để tìm những kỷ niệm ngày xưa với loạt danh lam thắng cảnh “đệ nhất thiên hạ”. Đó là không gian giản dị của bài thơ mở đầu cũng là thiên nhiên được khen ngợi không ngừng.
Triệu dát huyền hề Nguyên Tương,
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí, mị bất kinh duyệt
Tài năng của người viết thật sự hiện ra khi sử dụng từ ngữ và cú pháp. Chỉ cần những tên gọi đất nước khi được đọc lên đã nghe rất êm ái, bởi chúng được chọn lọc và sắp xếp thành một bản nhạc:
Tam > Ngô > Bách > Việt
Cửu > Giang > Ngũ > Hồ
Có những con sông như Nguyên, Tương ở Hồ Nam, cùng Vũ Huyệt ở Cối Kê… cũng như Tam Ngô, Bách Việt… mà mỗi ai đều đặt chân tới với mong muốn, ngóng trông, mang theo ước mơ, hy vọng được để lại dấu chân trên đất ấy. Dù xa xôi, dù cách trở, dù quen hay lạ, nhưng người đặt chân đến không ai khác ngoài những du khách đã từng đi bước. Họ tưởng rằng đã đủ “tráng chí' tung hoành, nhưng: “Vân Mộng giả sổ đắc, nhị tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã' (Một vài trăm đầm Vân Mộng đã làm cho tráng chí lớn tung hoành bốn phương nhưng vẫn chưa thỏa). Vẫn chưa đủ! Vì ngay trên vùng đất quê hương, ngay trên vùng đất anh hùng, ngay trên mảnh đất mẹ của Tổ quốc thân yêu mà chúng ta chưa đặt chân tới, chiến công sông Bạch Đằng! Đến với sông Bạch Đằng không chỉ là một chuyến đi mà còn là để hiểu, để nhớ và để biết ơn máu và xương của thế hệ cha anh đã đổ xuống để mang lại yên bình ngày nay. Chiến công vẻ vang đó, lý tưởng hào hùng đó sẽ sống mãi và để lại dấu vĩnh cửu cho muôn đời hậu thế!
Sự ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu gửi đến người đọc là chiều rộng và chiều sâu của dòng sông lịch sử, chiều rộng trong bản đồ địa lý, chiều sâu trong lịch sử của Bạch Đằng giang. Điều đó cho thấy dòng sông không chỉ là một dòng sông mà còn là một con sông vĩ đại, là trường sơn (Sóng to muôn dặm), với hàng ngàn lớp sóng. Điều đáng chú ý là ngoài vẻ hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn có vẻ đẹp nên thơ và tình tứ, nó như những nàng thơ, nó thơ mộng với những dòng nước liên tục, với những con thuyền trôi dập dềnh trên sông. Người xưa thường nói rằng cảnh đẹp tạo ra cảm xúc, có lẽ vì vậy mà đứng trước thiên nhiên đẹp đẽ đó khiến cho con người cảm thấy sôi sục, khiến cho niềm vui và nỗi buồn giao hòa. Nơi mà chúng ta đã chiến đấu và chiến thắng, nơi mà trận thủy chiến nổi tiếng trong lịch sử nhưng mà nói sao hết về những hi sinh với những lời nguyền rủa, với bao nước mắt và mồ hôi đã rơi xuống đất. Đất trời cũng hiểu lòng người, như một cách để chúng ta trở về quá khứ, để chúng ta nhớ lại những ngày chiến đấu căng thẳng, để thế hệ hôm nay không thể không cảm thấy xót xa, tiếc nuối cho bao anh hùng đã khuất:
Thương nỗi anh hùng không về
Tiếc thay dấu vết vẫn còn lại
Trước phong cảnh của mùa thu tàn nhẹ, bầu trời xanh biếc (màu của trời nước, mùa thu) tác giả không thể không xúc động. Tác giả đã sử dụng văn hóa ý thơ cổ để truyền cảm hứng vào Bạch Đằng. Nơi mà thiên nhiên kì diệu của Bạch Đằng đã kích thích cảm xúc để nổi lên, để hồn người trở nên lãng mạn. Cảm hứng đó lên cao trong lòng tự hào không giới hạn khi nhớ lại những anh hùng với ý chí quyết định chiến thắng, “hào khí Đông A' là ở đây!
Như vậy khổ thơ đầu tiên đã làm cho hình ảnh của sông Bạch Đằng, một biểu tượng trong lịch sử dân tộc, như một truyền thuyết, như một dấu ấn trong 4000 năm lịch sử chiến đấu, xây dựng và bảo vệ của dân tộc anh hùng. Đúng là, Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao của thơ ca trong văn học Việt Nam thời trung đại.
Phân tích phần mở đầu bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 2
Trong văn chương cổ điển, thiên nhiên thường được mô tả đầy phong phú. Các nhà văn, nhà thơ thường tìm đến thiên nhiên để thể hiện những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát tìm đến thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng buồn bã, đau khổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm lại sử dụng thiên nhiên để truyền đạt triết lí cao quý trong một thời đại đầy bất công... Trong bài phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã đặt thiên nhiên trong một bối cảnh khác. Mở đầu bài phú, nhà thơ mang người đọc vào một thế giới rộng lớn, hùng vĩ của Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, những nơi mà khách đã từng bước chân, cho thấy một con người tự do, phóng khoáng:
Giương buồm giữa gió hát lên,
Lướt sóng trăng, chẳng màng miền biển xa.
Bình minh thuyền đã đón sông Nguyên Tương,
Chiều tà thăm đến nơi Vũ Huyệt.
Khách, một người đi khắp nơi, hiểu biết sâu rộng:
Đầm Vân Mộng chứa mấy trăm đầm trong lòng, càng nhiều,
Nhưng lòng tráng chí vẫn chưa thỏa mãn.
Đi nhiều, biết nhiều, nhưng giữa những thú vui của cuộc sống, khách chỉ học theo Tử Trường, hay còn gọi là Tư Mã Thiên, một nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc, đã dành phần lớn cuộc đời để khám phá và ghi lại lịch sử của đất nước.
Có lẽ khách nhắc đến Tử Trường để chia sẻ tinh thần đồng điệu với nhà sử học này. Việc đi xa không chỉ là để thưởng ngoạn, tận hưởng vẻ đẹp tự nhiên, mà còn quan trọng hơn là để tìm về nơi cha ông đã góp phần làm nên lịch sử, để chiêm ngưỡng, tôn vinh và suy ngẫm về những chiến công to lớn đã làm cho lịch sử vẻ vang.
Điều này cho thấy vị thế vị khách cao quý, lòng dũng cảm vĩ đại. Đọc giả có thể cảm nhận được điều này qua cách mà khách tự hào kể lại. Khách nhắc đến nhiều địa danh xa xôi trong sách vở, chúng cách xa hàng ngàn dặm, làm thế nào có thể đi qua trong một ngày, một chiều (Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương – Chiều lần thăm Vũ Huyệt – Cửu Giang, Ngũ Hồ – Tam Ngô, Bách Việt). Đây chỉ là cách thể hiện ý tưởng mơ mộng, ước lệ. Quan trọng là nó đã tạo ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp tự do, phóng khoáng của nhân vật khách. Cảm hứng từ cuộc hành trình mở đầu bài phú, thực ra chỉ là việc chuẩn bị không khí phù hợp trước khi bước vào thế giới lịch sử hùng vĩ của sông Bạch Đằng.
Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu mang lại cho người đọc là sự vĩ đại và sức sống bất diệt của sông Bạch Đằng. Sông này thật sự lớn lao, vì rộng và dài hàng ngàn dặm. Nó không chỉ là một dòng sông mà còn là một biểu tượng của lịch sử (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với những lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng chú ý là ngoài vẻ hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn có vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình: những chiếc thuyền trôi dập dềnh trên sông; nước xanh, trời xanh; bờ sông cây cỏ xanh tươi...
Trước cảnh sông hùng vĩ và thơ mộng đó, tác giả cảm thấy xao xuyến. Đó là nơi của những trận đánh gay cấn trong quá khứ, mặc dù ta đã chiến thắng, nhưng không thể quên đi những mất mát, những giọt máu đã rơi xuống. Trời đất, như thể hiện lòng trắc ẩn, khiến người đương thời không thể tránh khỏi sự tiếc nuối, xót xa cho những anh hùng đã khuất. Ở đoạn thơ này, chúng ta thấy một nỗi buồn đẹp qua những câu thơ có âm điệu u sầu:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Sau này, Nguyễn Trãi khi đến thăm Bạch Đằng cũng chịu nỗi buồn tương tự.
Thẩm định qua phân tích khổ thơ đầu tiên của bài Phú sông Bạch Đằng đã kích thích trong người đọc những dòng cảm xúc sâu lắng, như mở rộng tầm nhìn bởi vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng, đồng thời lòng nhân từ sâu sắc với sự hy sinh của những anh hùng đã vấp ngã vì dân tộc.
Phân tích đoạn 1 của bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 3
Raxun Gamzatop, một nhà thơ từ vùng núi Daghetxtan từng nói rằng: “Lịch sử của một dân tộc không chỉ được ghi lại bằng máu và xương mà còn được ghi lại bằng những trang sách”. Nhìn vào lịch sử dày đặc của dân tộc ta, với hơn bốn nghìn năm văn hiến, đã trải qua hàng loạt triều đại với biết bao người đã hi sinh vì độc lập – tự do cùng những tác phẩm văn học lớn lao của nhiều thế hệ. Điều này đã tạo ra một đất nước không chỉ có lịch sử mà còn là nét đẹp trong tâm hồn con người. Trong thời kỳ văn học trung đại của Việt Nam, khi có nhiều biến cố và sóng gió, các nhà thơ đã trải qua biết bao nỗi lòng, chỉ có thể diễn đạt qua thơ ca, lời văn, bởi vì “thơ là tiếng lòng”. Sông Bạch Đằng đã trở thành một phần quan trọng trong văn hóa văn học Việt Nam, và bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu được coi là một tác phẩm vĩ đại trong lịch sử văn học Việt Nam.
Trương Hán Siêu là một học giả uyên thâm, tính cách cương trực, được vua Trần tin tưởng và kính trọng. Các tác phẩm của ông ít ỏi nhưng rất sâu sắc và mang tính dân tộc. Bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” được viết theo thể phú, một loại văn vần thường dùng để mô tả cảnh đẹp, phong tục, kể chuyện, nói lên cuộc sống,… Đặc biệt, Trương Hán Siêu đã sáng tác bài thơ này theo thể phú cổ (phú lưu thủy) không tuân theo niêm luật chặt chẽ của phú Đường luật, vì vậy nó tương đối tự do, giàu cảm xúc và dễ ghi nhớ.
Bạch Đằng, một nhánh sông đổ ra biển Đông nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi đã chứng kiến nhiều chiến công hiển hách trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước. Đây là đề tài phổ biến trong thơ ca Việt Nam, và Trương Hán Siêu đã tạo ra một trong những tác phẩm xuất sắc nhất về sông Bạch Đằng. Trong một cuộc du ngoạn trên sông Bạch Đằng, ông đã viết bài thơ này, không rõ là vào năm nào, có lẽ sau khoảng 50 năm sau cuộc chiến thắng chống lại quân Mông – Nguyên.
Từ xưa đến nay, các nhà thơ thường tìm đến thiên nhiên để thể hiện tâm trạng và suy tư của mình. Cao Bá Quát thể hiện sự chua xót bất đắc chí, Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền đạt đạo lí và triết lý, và sau này Bác Hồ cũng tìm đến thiên nhiên trong những khoảnh khắc gian khổ... Tuy nhiên, với Trương Hán Siêu, ông đến với thiên nhiên để mơ mộng khám phá thế giới và tự hào về dân tộc. Bài thơ bắt đầu với sự xuất hiện của một nhân vật khách, đó thực ra là phản ánh của tác giả, tạo ra sự sống động và hấp dẫn cho câu chuyện:
“Người du khách
Giương buồm giữa gió, mơ mộng
Lướt sóng dưới trăng, say sưa
……………………..
Chèo thuyền giữa dòng, thả buông
Đi xa, học Tử Trường thú tiêu dao”
Ngay từ những dòng thơ ban đầu, một hình ảnh kẻ sĩ xuất hiện, mê đắm với rượu và thơ, trên con thuyền của mình, sống hết mình với thiên nhiên, khám phá vẻ đẹp và học hỏi. Trương Hán Siêu sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ như “giương”, “lướt”, “mơ mộng” để tạo nên hình ảnh mạnh mẽ và phóng khoáng của nhân vật. Thú vui du ngoạn không chỉ là ngắm cảnh mà còn là học hỏi và bổ sung kiến thức. Bức tranh thiên nhiên mở ra sự hiểu biết sâu sắc của nhân vật, khi ông liệt kê các địa danh khắp nơi: “Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt”…
Cuộc viễn du đầu tiên của bài thơ khiến ta choáng ngợp trước vẻ đẹp thiên nhiên, nhưng đó chỉ là phần mở đầu trước khi bước vào thế giới của sông Bạch Đằng, nơi Trương Hán Siêu cảm nhận nhiều xúc cảm và suy tư về quá khứ:
“Qua cửa Đại Than, về phía bến Đông Chiều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền lướt một chiều
……………………………………
Thương nỗi anh hùng, không thể quên điều
Tiếc vết tích, vẫn còn lưu mãi.”
Dòng sông Bạch Đằng được nhân vật khách mô tả đầy sắc màu từ niềm tự hào, sự phấn khởi đến nỗi buồn thương, tiếc nuối. Thuyền trôi bập bềnh trên dòng sông: “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, sóng lớn trùng trùng gối lên nhau: “Bát ngát sóng kình”, bầu trời và dòng nước xanh mát hài hòa,… Dòng sông vừa hùng vĩ vừa dịu dàng, huyền ảo, thơ mộng. Tiết trời đã chuyển sang tháng thứ ba của mùa thu, cảnh vật làm lòng người xao xuyến, phơi phới tự hào khi đứng trước một dòng sông lịch sử, đẹp mĩ lệ, khác biệt với cảnh sắc buồn trong thơ của Tản Đà sau này:
“Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành.”
Dòng sông đưa ta về những kỷ niệm đau buồn, những ngày tháng khó khăn, khiến cảnh sắc đẹp đẽ cũng trở nên buồn bã, không ngăn được nỗi thương cảm trong lòng, như lời Nguyễn Du:
“Mỗi cảnh đều ẩn chứa nỗi buồn
Người buồn thì cảnh đẹp cũng trở nên u tối”
Hoặc như Đặng Trần Côn:
“Nỗi lòng buồn chân thành khắc sâu
Cành cây sương phủ, tiếng trùng mưa rơi”
Trải qua bao nẻo đau khổ, hồi ức vẫn hiện về dòng sông, chỉ còn lại gươm giáo, xương cốt của kẻ thù phương Bắc và của những anh hùng quân ta đã ngã xuống. Những từ ngữ 'san sát', 'đìu hiu' đã làm cho con sông trở nên hoang vắng, cô đơn, u tối đến đau lòng. Dấu tích lịch sử vẫn còn đó, thời gian có thể phai nhạt mọi thứ nhưng không thể xóa nhòa đi nỗi đau, sự mất mát. Ý thơ của Trương Hán Siêu gợi nhớ đến vài câu thơ trong bài “Cửa biển Bạch Đằng” của Nguyễn Trãi:
“Ngạc chặt kim băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi tầng tầng
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
Khung cảnh u tối ấy khiến người đọc không thể không đau lòng, để rồi “đứng lặng giờ lâu”, như là một hành động trữ tình đầy cảm xúc. Họ tiễn biệt những người đã ra đi, những anh hùng của Đại Việt và cả những người lính Trung Hoa linh hồn vẫn lang thang nơi đất khách quê người. Có lẽ đó là tâm hồn lớn lao của một con người nhân từ, có thế giới nội tâm sâu lắng, không chỉ yêu thiên nhiên, thương dân tộc mà còn đau xót cho cả kẻ thù – những con người bị bắt ép, bị cuốn vào cuộc chiến tranh không lương tâm…
Có những bài thơ đọc qua rồi lại quên, nhưng có những bài thơ dù thời gian trôi qua vẫn sống mãi cùng độc giả, và 'Phú sông Bạch Đằng' có lẽ là một trong số đó. Những câu thơ vẫn vang lên như âm nhạc của khúc anh hùng ca, như những đợt sóng của dòng sông Bạch Đằng vẫn vỗ mãi, làm cho thế hệ sau không khỏi tự hào. Đồng thời, đoạn trích này cũng thể hiện cao thượng nghệ thuật của thể phú, từ đó thấy được tài năng và vẻ đẹp sâu thẳm của tâm hồn con người Trương Hán Siêu – “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy'(Sê – khốp).
Phân tích đoạn 1 Phú sông Bạch Đằng - Mẫu 4
'Bạch Đằng giang phú' - một bài phú nổi tiếng nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ tôn vinh truyền thống anh hùng kiên cường của dân tộc mà còn thể hiện lòng tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất nước. Đặc biệt trong đoạn mở đầu của bài phú, tác giả đã ca tụng vẻ đẹp của dòng sông Bạch Đằng lịch sử, một địa danh mang ý nghĩa lớn lao với dân tộc.
Vẻ đẹp thiên nhiên của sông nước Bạch Đằng được tác giả miêu tả qua góc nhìn và cảm nhận của nhân vật 'du khách', nhưng có thể hiểu người 'du khách' chính là tác giả, ngay từ những dòng đầu tiên tác giả đã giới thiệu về người du khách là một người yêu tự do, thích khám phá:
'Du khách vừa ...
Thưởng thức cảnh trăng trên biển'
Nhân vật 'du khách' đã liệt kê các địa danh thông qua kiến thức và trải nghiệm thực tế của mình, từ sáng đến chiều lang thang, khám phá, trong đó nổi bật các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc như: sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.
'Sáng sớm đưa thuyền ra dòng Nguyên, Tương...
Đầm Vân Mộng ẩn chứa nhiều điều trong lòng.'
Người du khách tự tin tuyên bố rằng 'Ở nơi mà người ta đi qua, không chỗ nào là không biết', như muốn thể hiện sự hiểu biết sâu rộng và phong phú của mình, cũng như nhấn mạnh vào sự yêu thích văn hóa và sự tự do của bản thân. Ngoài các điểm đến trên lãnh thổ Trung Quốc, người du khách còn nhắc đến các địa danh quen thuộc của Việt Nam như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, cho thấy đây là một người đam mê thiên nhiên, có kiến thức sâu rộng và đam mê khám phá. Bằng tình yêu thiên nhiên, người du khách đã mô tả cảnh sắc thiên nhiên của sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sống động, mang lại nhiều hình ảnh đa dạng:
'Tới sông Bạch Đằng, thuyền lướt trên sóng một chiều...
Sông chìm giáo gãy, bờ đầy xương khô'
Sông Bạch Đằng hiện ra với vẻ đẹp hùng vĩ, khích lệ 'sóng kình muôn dặm' nhưng cũng không thiếu vẻ đẹp dịu dàng, lãng mạn 'Những cánh trĩ dạo phía sau', trên những đợt sóng dữ dội là những thuyền đánh cá bình dị nhưng an toàn trôi trên dòng nước, tạo nên một không gian tự nhiên hài hòa 'Nước và trời: một màu' bầu trời và mặt nước cùng một màu xanh ngắt, 'Phong cảnh: mùa thu' ý chỉ phong cảnh vào độ rộng nhất trong mùa thu. Cảnh sắc này gợi lên một không gian thơ mộng, nhưng cũng mang nét buồn bã với hình ảnh bờ lau, bến đá, các từ 'san sát', 'đìu hiu' đã miêu tả sự cô đơn, đau buồn và trống vắng của con sông, những bờ lau trắng xóa liên tục trên bờ, những bến đá lạnh lẽo gợi lên cảnh đau lòng, thương tiếc. Một nơi đây từng là chiến trường đẫm máu, đã chứng kiến bao nhiêu sinh mạng tan biến, máu đỏ vẫn nhuộm dòng sông, dưới sông là nhiều giáo gươm, trên bờ là nhiều xương khô. Những vết tích này là minh chứng cho lịch sử vĩ đại của dân tộc nhưng cũng gợi lên nỗi tiếc nuối cho những mất mát, hy sinh.
'Buồn khi nhìn cảnh bi tráng, đứng im mãi một chốc...
Thương tiếc cho dấu vết kỷ niệm còn lại'