Mẫu 1
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc vĩ đại của Việt Nam với những cống hiến to lớn, tình yêu nước cháy bỏng đã tôi luyện và hình thành nên ông. Ông nổi tiếng với tài năng văn chương và tác phẩm nổi tiếng của mình thường nói về tình yêu nước và lí tưởng cao cả. Đoạn 3 của Bình Ngô đại cáo được coi là minh chứng cho sự kiên trì, quyết tâm trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược, là một trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi đã tạo ra một bức tranh sống động về khởi nghĩa Lam Sơn và vị lãnh tụ Lê Lợi. Từ việc tái hiện các trận đánh liên tiếp cho đến bức tranh về tinh thần chiến đấu và tình yêu nước, ông đã truyền tải một thông điệp sâu sắc về lòng dũng cảm, tinh thần đoàn kết và nhân văn.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi không chỉ là một tác phẩm văn học lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ người Việt về lòng yêu nước và sự kiên trì trong cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước.
Mẫu 2
Lời giải chi tiết:
Sau khi đánh tan quân Minh, Nguyễn Trãi đại diện cho vua Lê Lợi viết bức thư tuyên bố chiến thắng để thông báo cho nhân dân về chiến thắng. Bức thư không chỉ khẳng định chủ quyền của nước mà còn tố cáo tội ác của quân Minh, đồng thời trình bày quá trình từ cuộc chiến đấu mạnh mẽ đến chiến thắng của dân tộc Đại Việt. Đặc biệt, vai trò lãnh đạo và ý chí quyết đoán của vua Lê Lợi được thể hiện rõ ràng.
Phần ba mở đầu bằng việc nêu lên những khó khăn mà vua Lê Lợi và nhân dân Đại Việt phải đối mặt:
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dậy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dậy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Đoạn thơ thể hiện rõ những khó khăn và quyết tâm của vua Lê Lợi. Vì không chấp nhận được việc nhân dân trở thành nô lệ cho quân Minh, vị anh hùng Lê Lợi đã quyết định ở nơi hoang dã, nếm mật nằm gai để chờ đến ngày dậy cờ khởi nghĩa. Vua Lê Lợi căm thù giặc, đau lòng đến nhức óc, mộng mị cũng trằn trọc chỉ vì một mục tiêu đánh bại quân Minh. Giữa lúc quân Minh đang mạnh mẽ như vậy mà muốn khởi nghĩa người tài lại khó tìm:
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,”
So sánh này càng cho thấy hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Khó khăn chồng chất khó khăn, nhà vua không có ai để bàn bạc hay đỡ đần. Tuy nhiên, lòng người muốn cứu nước vẫn cứ đâm đầu vào vấn đề mong dẹp giặc. Mặc dù người thì không ai giúp được nên Lê Lợi phải tự mình nỗ lực, phần vì muốn dẹp giặc phần vì lo cho nước nhà. Cũng có những lúc lương hết, binh tan nhưng trăm dân như một, ý chí quật cường, vua Lê sử dụng kế sách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Và kết quả cho thấy bằng những nỗ lực vượt qua khó khăn và ý chí cũng như chiến lược thao binh tuyệt vời, Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân giành chiến thắng và đuổi quân Minh ra khỏi nước:
“Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
……..
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp”
Bằng cách liệt kê các sự kiện từng trận đánh một cách chi tiết nhất, nhà văn đã thuật lại diễn biến của quá trình vua Lê Lợi và binh lính của mình trong việc giành chiến thắng từng bước. Chúng ta lấy nhân nghĩa để trừ bạo ngược, lấy chính nghĩa để thắng hung tàn. Các trận chơi xổ sốu sấm vang chớp giật, tan tác tro bay. Đánh cho chúng không còn được rút lui mà phải bò ra xin hàng, xác người chất thành đống, máu tanh trôi đầy sông.
Không chỉ thắng trận liên tiếp, Lê Lợi và binh lính của mình còn thể hiện sự nhân nghĩa, nhân đạo kể cả khi họ giành chiến thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, được cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra biển mà vẫn lòng vui phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, được cấp cho vài nghìn con ngựa, về đến quê hương mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống nhưng sợ chết mà lại thể hiện lòng hiếu khách
Ta lấy toàn quân làm yếu, để nhân dân được nghỉ ngơi.”
Mặc dù giành chiến thắng nhưng quân ta vẫn cấp cho chúng thuyền, ngựa để về. Theo Lê Lợi, họ muốn hòa bình thì chúng ta nên giữ lấy quân lính, để nhân dân được nghỉ ngơi.
Đây là một cuộc chiến đấu gian nan để giành chiến thắng như ngày hôm nay. Cuộc chiến của nhân dân Đại Việt là một cuộc chiến chính nghĩa, lấy nhân nghĩa để đấu tranh với bạo ngược hung tàn, và kết quả là chính nghĩa đạt được chiến thắng. Chúng ta cũng tự hào về vua Lê Lợi – một người tài trí xuất chúng đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Minh ra khỏi lãnh thổ. Đặc biệt không thể không kể đến tài năng và công lao của Nguyễn Trãi khi viết nên bài thơ hùng văn này.
Mẫu 3
Lời giải chi tiết:
Nguyễn Trãi, nhà văn tài hoa của văn học Việt Nam, với tác phẩm Bình Ngô đại cáo đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc. Đoạn thơ thứ 3 trong tác phẩm này là một bức tranh hùng vĩ về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dậy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Đoạn thơ này khẳng định tâm hồn kiên cường của vị lãnh tụ Lê Lợi. Lê Lợi không chỉ là một vị tướng lĩnh xuất sắc mà còn là người có tâm hồn sâu sắc, hiểu biết và tự nhiên cảm nhận được sự căm thù cháy bỏng đối với kẻ thù. Tuy nhiên, ông cũng nhận thức rằng nếu chỉ sống trong lòng hận thù, sẽ dẫn đến mù quáng và hồ đồ. Vì vậy, Lê Lợi không chỉ chứa đựng trong lòng niềm căm thù mà còn nếm trải nỗi đau và sự khổ sở, trải qua những cảm xúc như 'đau lòng nhức óc', 'nếm mật nằm gai', 'quên ăn vì giận'. Đây là những trăn trở về kế sách binh lược và lo lắng về những khó khăn phía trước. Mặc dù bắt đầu cuộc kháng chiến trong hoàn cảnh gian khổ, nhưng nhờ sự kiên trì và quyết tâm, Lê Lợi cùng các chiến sĩ của mình đã vượt qua mọi thử thách và đạt được chiến thắng.
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Trong bài thơ, hình ảnh thiên nhiên được sử dụng như một biểu tượng, miêu tả chiến công vĩ đại của nghĩa quân Lam Sơn. Hình ảnh gươm mài đá, đá núi cũng mòn và voi uống nước, nước sông phải cạn thể hiện sự kiên nhẫn và quyết tâm của những chiến sĩ Lam Sơn. Những dòng thơ cuối cùng miêu tả sức mạnh và sự hào hùng của nghĩa quân Lam Sơn trong các trận chiến. Chúng ta không chỉ giành chiến thắng mà còn làm cho đối thủ kinh ngạc và sợ hãi. Hình ảnh 'sạch không kình ngạc' và 'tan tác chim muông' cho thấy sức mạnh và quyết đoán của nghĩa quân Lam Sơn.
“Bị chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà bỏ mạng!
Nghe thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi miêu tả những chiến công vĩ đại của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống lại quân Minh. Những chiến công này đã góp phần lưu danh sử sách nghìn năm về tinh thần yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chiến sĩ của chúng ta đã chiến đấu và giành chiến thắng, từ đó tạo ra một tinh thần yêu nước mãnh liệt, quật cường cho các thế hệ sau. Bài thơ của Nguyễn Trãi là một tuyên ngôn về sự đoàn kết và kiên trì của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến vĩ đại chống lại quân Minh xâm lược.