Đề bài
Phân tích phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân qua tùy bút 'Người lái đò sông Đà'
Lời giải chi tiết
Khát khao sáng tạo trong nghệ thuật, ham muốn khám phá và biểu hiện những cảm xúc mạnh mẽ, dữ dội, kết hợp với tinh thần nghệ sĩ tự do, đã thúc đẩy Nguyễn Tuân đến với sông Đà và thông qua 'nghệ thuật vững vàng của lời văn', ông đã tạo ra hình ảnh của dòng sông Đà - một trong những kiệt tác của văn học viết văn. Văn học Việt Nam đã được bổ sung thêm một biểu tượng mới, một tác phẩm để được yêu thích và trân trọng. Có lẽ hình ảnh của dòng sông Đà trong tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' là một trong những diễn tả rõ nét nhất về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Trong văn chương của Nguyễn Tuân, ta tìm thấy sự “cảm xúc mạnh mẽ, hơi thở dày” (Nguyễn Đăng Mạnh) của tác giả, một nghệ sĩ trữ tình mang trong mình lòng khao khát mãnh liệt, mong muốn biến những trang văn thành những trang sách lộng lẫy, quyến rũ và thách thức người đọc.
Từ đầu đến cuối tác phẩm, hình ảnh dòng sông Đà được mô tả từ nhiều khía cạnh, góc nhìn khác nhau. Qua việc khám phá về dòng sông, người đọc hiểu thêm về nhà văn Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ “sống để tìm kiếm sự thật và vẻ đẹp” - vì hình ảnh của dòng sông vĩ đại ở Tây Bắc là cách biểu hiện toàn diện về phong cách hoặc quan điểm về cuộc sống của tác giả. Trong đó, bạn đọc có thể nhận thấy một con người ưa sự độc đáo, một nghệ sĩ mạnh mẽ luôn tìm kiếm những trải nghiệm sâu sắc và mãnh liệt. Một thầy phù thủy của ngôn từ, hình ảnh...
Dòng sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân, bên cạnh vẻ hung bạo, dữ dội như một “kẻ thù số một” của con người, cũng thể hiện sự bay bổng, tinh tế của một con người trữ tình đầy cảm xúc. Nếu phải chọn đoạn văn ấn tượng nhất, tôi sẽ lựa chọn đoạn miêu tả vẻ đẹp của dòng sông hiền hòa “con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Đoạn văn như một bản nhạc êm đềm, hoặc một bức tranh nước, mang lại cho người đọc những cảm xúc sâu lắng và nhẹ nhàng. Bằng tài năng và lòng đam mê, dòng sông dữ dội đã nhường chỗ cho hình ảnh của dòng nước nhẹ nhàng, đầy yêu thương “dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Mặc dù được mô tả từ góc độ tự nhiên, nhưng Nguyễn Tuân đã thổi vào dòng sông Đà những cảm xúc tinh tế của một con người nghệ sĩ. Nó cũng biết “dịu dàng”, cũng yêu thương, duyên dáng, cũng hồn nhiên, lặng lẽ... Nguyễn Tuân không chỉ nhìn dòng sông ấy như một con người, mà còn hơn thế, một con người có tài năng nghệ sĩ. Vì vậy, Nguyễn Tuân đã coi dòng sông Đà như một “cố nhân” (“nó đằm đằm âm ấm như gặp lại cố nhân”), và trong nhiều tác phẩm, nhà văn Nguyễn đã thể hiện tình yêu của mình đối với những con người tài hoa và thiên nhiên mỹ miều. Tùy bút “Sông Đà” là một tác phẩm như thế, là sự kết hợp của tình yêu với con người và tình yêu với thiên nhiên, tập trung vào hình ảnh của dòng sông Đà. Từ xưa đến nay, ai cũng có niềm vui như “nắng tan sau cơn mưa, như nối lại giấc mơ bị đứt gãy” khi nhìn thấy dòng sông. Đó chính là vì Nguyễn Tuân đã nhìn dòng sông như một con người, và hơn thế nữa, như một nghệ sĩ tài hoa, một cố nhân lâu ngày gặp lại.
Tình yêu cuộc sống, lòng ham muốn hiểu biết về dòng sông, cầu núi của đất nước, cũng như niềm đam mê với hoạt động du lịch... đã khiến mỗi trang văn của Nguyễn Tuân tràn ngập kiến thức, thể hiện sự hiểu biết chi tiết từng phần của cuộc sống được mô tả trong tác phẩm của ông. Dòng sông Đà có thể được mô tả một cách lãng mạn, thơ mộng nhưng cũng có những lúc xuất hiện một cách chính xác trong từng chi tiết. Nguyễn Tuân đã trở thành như một nhà địa lý, khi ông đưa chúng ta đến nguồn sông Đà tại Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam, rồi theo dòng sông Hồng, chảy qua đất Việt trên 500 dặm trong tổng chiều dài 883 nghìn thước mét, mô tả về “các thác, các vịnh trên sông Đà từ Vạn Yên về hạ nguồn”. Ông cũng như một nhà điện ảnh, sử dụng ngôn ngữ của nghệ thuật thứ bảy: “những cảnh màu sắc cũng xoay vòng, máy quay ngược lại, hình ảnh đèn lồng lên mặt giếng...”. Khi miêu tả về sông Đà, Nguyễn Tuân đã có vai trò như nhiều nhà khoa học: một nhà nghiên cứu lịch sử biết về sông Đà dưới thời Pháp, một nhà chính trị biết về chuyện “châu Quỳnh Nhai được giải phóng trước hết ở Tây Bắc”, trở thành “cơ sở bắt đầu ở Tây Bắc” thâm nhập vào địch... Không chỉ thế, Nguyễn Tuân còn sử dụng kiến thức về nhiều lĩnh vực nghệ thuật gần gũi với văn chương như hội họa (“dòng sông Đà trải dài...”), điêu khắc có các mảng đá dựng lên bờ sông Đà như một cái yết...), và thậm chí là những lĩnh vực hoàn toàn xa lạ với văn chương. Nguyễn Tuân rất hiểu biết và linh hoạt trong việc tái hiện Đà giang từ nhiều góc độ khác nhau. Ông còn sử dụng kiến thức về võ thuật để mô tả cuộc đấu giữa dòng sông: kiến thức về thể thao khi miêu tả cuộc chiến đấu “các dòng nước ở đoạn này lại ở giữa bọn đá hậu vệ của thác...” Nhờ kiến thức này, sông Đà đã hiện lên rất sinh động, rất chân thực, vừa dữ dội như võ thuật, vừa bay bổng như hội họa, văn chương... Nguyễn Tuân đã đạt được tiêu chuẩn văn chương: trữ tình, sâu lắng và chính xác, khoa học... Trong quá trình tái hiện cuộc sống trên dòng sông Đà, Nguyễn Tuân không chỉ là người hiểu biết, mà còn là người ham hiểu biết, nhiệt tình khám phá những lĩnh vực mới trong cuộc sống. Trong lịch sử văn học, có lẽ không có ai làm việc vất vả như nhà văn Thăng Long này, khi ông bay qua sông Đà nhiều lần chỉ để viết lại cảnh đẹp: “nhìn mây mùa xuân trên sông Đà... bởi vì mỗi mùa thu về”.
Với tình yêu mãnh liệt dành cho tiếng Việt, sự hiểu biết sâu sắc về sự thay đổi từng từ ngữ, Nguyễn Tuân đã trở thành một thầy phù thủy của ngôn từ, với hàng trăm phép biến hóa mà mỗi phép biến hóa đều có sức mạnh đặc biệt, dù trong cuộc sống ông chỉ tự xưng là “người viết tiếng Việt”, không phải là “nhà văn” hay bất kỳ danh hiệu nào khác. Trong tùy bút “Sông Đà”, ông đã sử dụng toàn bộ tài năng và vốn từ của mình để mô tả cả sự hung bạo và vẻ đẹp trữ tình của một con sông lâu dài.
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, chúng ta còn gặp rất nhiều phép so sánh tinh tế và bất ngờ. Để diễn tả cảm giác lạnh lẽo khi ngồi trong khoang đò trên sông, Nguyễn Tuân đã so sánh cảm giác đó với việc “như đứng ở hè một cái ngõ, nhìn lên một khung cửa sổ nào đó trên cái lầu, trong khi ánh đèn sáng rọi từ phía bên trong nhà”. Có phải là phép so sánh độc đáo và hiệu quả như vậy không? Đôi khi ông còn sử dụng lửa để so sánh với nước: “lửa đã phát ra tiếng rống như hàng nghìn con trâu đang la hét giữa rừng cây, đang nổi giận trong rừng lúa, rừng lúa đang cháy dữ dội, rừng lửa và con trâu đang gầm thét cùng nhau”. Hình ảnh so sánh và cú pháp ngắn, dày dặn đã tạo ra cảm giác cuồn cuộn như sóng lớn đang dâng trào... Phép so sánh “bờ sông hoang dã như một bờ tiền sử. Bờ sông trong sáng như một câu chuyện cổ tích ngày xưa tập trung thể hiện lòng tôn trọng cho giá trị văn hóa truyền thống, thể hiện tình yêu sâu đậm với thiên nhiên tươi đẹp, đồng thời thể hiện cảm nhận sâu sắc về cuộc sống trong ngần như pha lê của nhà văn văn hóa chiến sĩ
Hình ảnh dòng sông Đà được tái hiện trong trang văn với sự tài năng và lòng đam mê của nhà văn. Dòng sông Đà vĩ đại đã được mô tả qua từng trang văn, từ dữ dội đến dịu dàng, từ hung bạo đến thâm thúy. Điều này cũng phản ánh phần nào bản tính của Nguyễn Tuân - mạnh mẽ nhưng cũng đầy tình cảm với quê hương. Sông Đà được coi như một 'cố nhân' quen thuộc, được hiểu biết sâu sắc và chính xác bởi nhà văn, và tái hiện rực rỡ trong từng dòng chữ. Qua hình ảnh của con sông, chúng ta thấy Nguyễn Tuân được khẳng định trong lịch sử văn học với phong cách độc đáo của một tâm hồn tài hoa, mãnh liệt và đầy yêu thương. Văn chương luôn là phản ánh của tác giả, và qua dòng sông Đà, chúng ta cảm nhận được cái nhìn đặc biệt của Nguyễn Tuân về cuộc sống và văn hóa.
Dòng sông Đà trong văn học Việt Nam mãi mãi được nhớ đến - sự hòa quyện giữa sự hung bạo và trữ tình, giống như việc ngưỡng mộ một vì sao sáng trên bầu trời văn học - nhà văn - nghệ sĩ Nguyễn Tuân.
Nguyễn Thanh Minh
12 văn - Lê Hồng Phong