TOP 15 bài văn Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất của các bạn học sinh giỏi trên toàn quốc, mang lại cho các em cái nhìn sâu sắc về tinh thần dũng cảm và lòng yêu nước mãnh liệt của vua Quang Trung.
Hoàng Lê nhất thống chí (Quang Trung đại phá quân Thanh) là một phần của chương trình học trong môn Ngữ văn 9 hiện nay, cũng như trong Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo, Cánh diều và Kết nối tri thức. Thông qua 15 bài phân tích về cuộc đại phá quân Thanh của Quang Trung trong bài viết dưới đây, các em sẽ hiểu rõ hơn về sự thảm bại của vua Lê Chiêu Thống.
Sơ đồ tư duy Phân tích Hoàng Lê nhất thống chí
Dàn ý phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
1. Khởi đầu:
- Giới thiệu về nhóm tác giả Ngô gia văn phái và tác phẩm 'Hoàng Lê nhất thống chí'.
2. Nội dung chính:
a. Tổng quan về nhóm tác giả Ngô gia văn phái và tác phẩm 'Hoàng Lê nhất thống chí':
- Nhóm tác giả Ngô gia văn phái bao gồm hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
- Ngô Thì Chí (1753 - 1788) từng làm quan dưới thời vua Lê Chiêu Thống và tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Ông là tác giả của 7 hồi đầu của 'Hoàng Lê nhất thống chí'.
- Ngô Thì Du (1772 - 1840) làm quan dưới thời nhà Nguyễn đến năm 1827 thì về nghỉ và là tác giả của 7 hồi tiếp theo của 'Hoàng Lê nhất thống chí'.
- Đoạn trích được học là hồi thứ 14 của 'Hoàng Lê nhất thống chí' có nội dung tái hiện lại chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, đồng thời cho thấy sự thảm bại của tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
b. Phân tích tác phẩm:
- Tượng nhân vật anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ:
- Mạnh mẽ và quyết đoán trong mọi tình huống.
- Trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt hơn người, nhạy bén trước thời cuộc.
- Ý chí quyết chiến quyết thắng, có tầm nhìn xa trông rộng, khao khát hòa bình.
- Tài điều binh khiển tướng như thần.
→ Vua Quang Trung là anh hùng dân tộc dũng cảm, thông minh, lòng nhân ái, là hồn của quân nghĩa Tây Sơn, của chiến thắng to lớn.
- Sự thất bại đau lòng của quân tướng nhà Thanh và số phận đắng cay của bè lũ phản quốc hại dân Lê Chiêu Thống:
- Quân Thanh: Tướng không tài năng (Tôn Sĩ Nghị kiêu căng, tự mãn chủ quan kéo quân vào xâm chiếm thành Thăng Long), quân vô dụng (Khi quân Tây Sơn tấn công thì bỏ chạy loạn lạc, trample lên nhau mà chết), tham sống sợ chết.
- Vua Lê Chiêu Thống: Chỉ biết lạc quan, cầu cạnh, phụ thuộc vào thế lực quân Thanh, chạy trốn bằng sống bằng chết để trốn sang Tàu.
→ Sự nhục nhã và hèn hạ của vua Lê Chiêu Thống cùng số phận bi đát của lũ cướp và lũ bán nước.
c. Đánh giá:
- Trình bày diễn biến sự kiện lịch sử, sử dụng ngôn ngữ chân thực, tạo ấn tượng mạnh về quan điểm của tác giả đối với các đối tượng như vua Quang Trung, quân Thanh, và vua Lê Chiêu Thống.
- Đoạn trích thể hiện quan điểm lịch sử chính xác, tinh thần yêu nước, thương dân của nhóm tác giả, đồng thời lên án lũ cướp và lũ bán nước.
3. Kết bài:
- Tóm tắt giá trị của tác phẩm.
....
Phân tích về tác phẩm về chiến công đại phá của vua Quang Trung đối với quân Thanh.
Quang Trung – Nguyễn Huệ được đánh giá là một thiên tài về quân sự, là một anh hùng dân tộc xuất sắc. Hình ảnh vua Quang Trung thể hiện tinh thần quật cường, kiên cường của người Việt Nam. Với chỉ 39 tuổi, Quang Trung đã có 22 năm chiến đấu, đẩy lùi kẻ thù từ Nam ra Bắc, đồng thời góp phần vào sự thống nhất đất nước và bảo vệ độc lập cho nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử vĩ đại của dân tộc.
Khi nói về vua Quang Trung, người ta không thể không nhắc đến một anh hùng mạnh mẽ, quyết đoán trong mọi hành động. Nghe tin giặc xâm lược, ông đã tức giận và ngay lập tức họp các tướng lĩnh để lên kế hoạch chiến đấu. Nguyễn Huệ luôn là người hành động liên tục, không ngừng làm việc, quyết đoán và dứt khoát trong mọi quyết định, xứng đáng là vị lãnh tụ hàng đầu.
Vua Quang Trung còn được biết đến là một người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén trong mọi tình huống. Ông có tầm nhìn rộng lớn, mưu cao trí lược, và luôn cân nhắc mọi quyết định để đạt được mục tiêu cuối cùng. Ông hiểu rõ về tình hình quân địch, phân tích thế lực hai bên và đưa ra phán đoán chính xác. Ông cũng sử dụng lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những người dễ lạt mềm, nhưng vẫn giữ được sự uy tín của mình. Hành động của Quang Trung luôn sáng suốt, giúp thu phục lòng tin của mọi người.
Với Quang Trung, tinh thần quyết định, quyết thắng, tầm nhìn xa, trí óc rộng lớn rất quan trọng. Ông đã quyết tâm khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể tái chiếm kinh đô Thăng Long, nói làm được, làm được, đây là một trong những trận đấu anh hùng nhất trong lịch sử chống lại quân thù xâm lược của dân tộc. Ông đã khéo léo sử dụng ngoại giao để bảo vệ hòa bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức các trận đánh linh hoạt, sáng tạo, với nhiều chiến thuật khôn khéo kết hợp một cách chặt chẽ giữa các đội quân, chiến thuật luôn giữ thế chủ động, khi cần thì phòng thủ, luôn tận dụng được điểm yếu của quân địch khiến chúng không thể chống cự. Tài trận của ông không cần bàn cãi: trận Hà Hồi, trận Ngọc Hồi với kế hoạch khống chế tinh thần của quân địch, trận Ngọc Hồi sử dụng rơm để tránh lửa, sử dụng kế gậy để đánh lưng, đồng thời tấn công chặn đứng quân địch khiến chúng hoàn toàn bất lực.
Từ những đoạn trích trên, chúng ta có thể thấy một nhân vật xuất sắc trong lịch sử: Quyết đoán, kiệt xuất, có trí tuệ và võ nghệ, đã ghi dấu ấn vĩ đại của dân tộc, làm sáng tỏ truyền thống anh dũng của dân tộc, mãi mãi nhớ đến anh hùng áo vải Quang Trung.
Phân tích về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 1
Dù chiến tranh đã kết thúc, nhưng trong lịch sử của dân tộc vẫn còn rất rõ dấu ấn của trận Ngọc Hồi - Đống Đa với chiến thắng nhanh chóng, ấn tượng đã khiến chúng ta nhớ về một vị vua tài ba, anh dũng, đó là vua Quang Trung. Mặc dù lực lượng của chúng ta yếu hơn, nhưng nhờ có những vị tướng tài ba với kỹ thuật điều binh xuất sắc đã giúp cho quân dân ta đánh bại mọi thế lực xâm lược. Chính vì thế, trong tác phẩm 'Hoàng Lê nhất thống chí', nhóm tác giả Ngô gia văn phái đã tái hiện lại hoàn cảnh của nước ta vào khoảng 30 năm cuối thế kỷ 18, đặc biệt là qua đoạn trích hồi thứ 14, ta đã thấy rõ hình ảnh của vua Quang Trung và sự thất bại của quân lính bán nước và cướp nước.
Nhóm tác giả Ngô gia văn phái bao gồm hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du. Ngô Thì Chí (1753 - 1788) là em ruột của Ngô Thì Nhậm, ông từng làm quan dưới triều vua Lê Chiêu Thống và luôn trung thành với triều đình Lê. Theo nhiều nguồn tài liệu, ông được cho là tác giả của 7 hồi đầu tiên trong 'Hoàng Lê nhất thống chí'. Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú ruột của Ngô Thì Chí, mặc dù học vấn xuất sắc nhưng không thành công trong kỳ thi. Ông làm quan dưới thời nhà Nguyễn cho đến khi về hưu vào năm 1827 và được xem là tác giả của 7 hồi tiếp theo trong 'Hoàng Lê nhất thống chí'. Đoạn trích được trích từ hồi thứ 14 của 'Hoàng Lê nhất thống chí' đã tái hiện một cách sinh động hình ảnh của anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ thông qua chiến công vượt bậc đánh bại quân Thanh, đồng thời thể hiện sự thảm bại của quân Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống.
Trong tác phẩm, vua Quang Trung - Nguyễn Huệ được mô tả rõ nét với tài năng chỉ huy quân đội 'vạn chiến vạn thắng', có tính quyết đoán và nhiều phẩm chất tốt lành khác. Ông luôn sẵn lòng lắng nghe ý kiến của dân làm vua, chỉ khi lòng dân đã bắt đầu đồng lòng thì ông mới ra quyết định ra Bắc tiến chiến. Khi đến Nghệ An, ông lại mở cửa lắng nghe ý kiến của nhân dân, vì ông luôn hành động vì lợi ích của dân nên ngay cả những quyết định nhỏ nhất cũng phải được thảo luận với dân. Khi nghe câu trả lời của một người dân rằng 'Chúa công ra trận này, chưa đến mười ngày, quân Thanh sẽ tan tác' thì vua Quang Trung 'rất vui mừng' vì sự quyết tâm này của mình đã được dân ủng hộ. Ông ngay lập tức gọi tuyển binh và chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã có 'hơn một vạn quân kỳ binh' trong tay. Nhờ có trí thông minh, sắc bén hơn người, nhạy bén với hoàn cảnh và cực kỳ khéo léo, ông đã thuyết phục được quân lính 'không một ai dám rút lui'. Khi nói chuyện với binh sĩ, ông đã làm cho họ thấy rằng ở đây không có sự phân biệt giữa vua và lính. Sau khi phát ngôn từ lịch sử về cảnh khốn khổ của dân chúng dưới chế độ ngoại bang, ông nhấn mạnh rằng kẻ phản bội sẽ bị trừng phạt, làm cho quân lính càng đoàn kết hơn, quyết tâm chiến đấu hơn. Nhờ ý chí quyết đoán và quyết thắng, có tầm nhìn xa và mong muốn hòa bình, quân Lam Sơn đã đánh bại quân Thanh 'với tốc độ chóng mặt' trong trận Ngọc Hồi. Lời hứa sẽ vào thành Thăng Long mừng ngày mồng 7 năm mới của ông đã được chứng minh bằng sự tài năng chỉ huy quân sự như thần của ông. Ông đảm bảo bí mật cho cuộc hành quân, khiến quân Thanh bất ngờ bởi cuộc tấn công vào làng Hà Hồi, sử dụng ván phủ rơm ướt để tấn công làng Ngọc Hồi, khiến quân Thanh hoàn toàn bất ngờ, khi họ nhận thấy sự tấn công thì đã quá muộn, chỉ còn biết xô đẩy nhau trên đường bỏ chạy. Dựa vào những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy rằng vua Quang Trung là một vị anh hùng dân tộc dũng cảm, thông minh, giàu lòng nhân ái, thiên tài quân sự và cũng chính là linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn, của chiến thắng vĩ đại.
Khi quân Tây Sơn giành chiến thắng, cũng là lúc quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại và lũ bán nước phản bội phải chịu số phận bi đát của mình. Quân Thanh có tướng tài kém cỏi Tôn Sĩ Nghị luôn tự mãn, tự phụ và chủ quan khi kéo quân vào xâm chiếm thành Thăng Long, chỉ quan tâm đến việc vui chơi mà không chuẩn bị sẵn sàng cho bất kỳ biến cố nào, 'ngựa chưa kịp đóng yên', 'người chưa kịp mặc áo giáp' mà vội vàng chuồn lên đường. Quân lính vô dụng nên khi quân Tây Sơn tấn công, họ bỏ chạy mất dạy, chết không mảy may, chúng quá tham lam mà sợ chết đến mức tranh nhau qua cầu, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết nhiều đến mức làm nước sông Nhị Hà cũng bị tắc lại không thể chảy. Vua Lê Chiêu Thống chỉ biết chạy trốn, cầu cạnh, luồn cúi dựa vào thế lực quân Thanh, khi nghe tin quân Tây Sơn đuổi kịp, ông buộc phải trốn qua biển sang nước ngoài. Đó cũng chính là số phận nhục nhã, hèn hạ của vua Lê Chiêu Thống và của toàn bộ lũ bán nước và cướp nước.
Tác giả đã chọn cách sắp xếp diễn biến lịch sử, ngôn ngữ miêu tả chân thực, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ để thể hiện quan điểm của mình về từng nhân vật như vua Quang Trung, quân Thanh, vua Lê Chiêu Thống. Tốc độ kịp thời, nhanh chóng ẩn chứa sự hứng khởi, sung sướng trước chiến thắng của vua Quang Trung và sự thất bại bi đát của kẻ thù. Tốc độ chậm hơn, không thể giấu diếm được sự tiếc nuối, đau thương khi miêu tả chi tiết cuộc chạy trốn của vua Lê Chiêu Thống vì họ là người thân với triều đình Lê. Đoạn trích đã thể hiện quan điểm lịch sử đúng đắn, tinh thần yêu nước và tình cảm thương dân của nhóm tác giả và từ đó lên án lũ bán nước, cướp nước.
Qua đoạn trích trên, nhóm tác giả đã truyền đạt một cách rõ ràng bức tranh hoàn chỉnh về vị anh hùng oai phong, quyết đoán và tài giỏi Quang Trung. Đó cũng là một tấm gương sáng để chúng ta cần học tập và noi theo về tinh thần dũng cảm, yêu nước. Tình yêu nước chính là sức mạnh vĩ đại giúp chúng ta đánh bại mọi kẻ thù xâm lược.
Phân tích về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 2
Hoàng Lê nhất thống chí, cuốn sách của dòng họ Ngô Thì tại làng tả Thanh Oai, một cuốn sách ghi lại nhiều sự kiện lịch sử, trong đó có vua Quang Trung đại phá hơn ba mươi vạn quân Thanh, một tác phẩm đưa con người ngược lại quá khứ để thấy được cuộc sống, xã hội thời bấy giờ và hòa mình vào chiến thắng vẻ vang hào hùng, đắm mình trong không khí tưng bừng lịch sử đó.
Ngô Gia Văn Phái đã tái hiện chân thực nhân vật lịch sử Quang Trung, người có công to lớn, một vị anh hùng của dân tộc trong chống ngoại xâm, giữ gìn đất nước, Quang Trung hiện lên trong tâm trí người đọc là một con người mạnh mẽ, quyết đoán, tài trí song toàn, xả thân vì đất nước, xả thân vì dân tộc, đoán trước được những gì sẽ xảy ra với nhân dân ta khi nghe tin quân Thanh tấn công vào miền Bắc đất nước ta, nhận thấy được mối nguy hại cận kề, sự tàn khốc mà quân Thanh sẽ gây ra cùng với sức mạnh của chúng ông đã lên ngôi hoàng đế tự mình dẫn quân ra Bắc ngăn chặn mối nguy hại đó, một con người tài ba có tài thao lược, con người có thể thấu hiểu lòng dân, thấu hiểu lòng binh sĩ, những lời lẽ của ông khích lệ mạnh mẽ tình yêu dân tộc, sức mạnh, nỗi khát khao trong lòng binh sĩ. Không chỉ thế ông còn có tầm nhìn xa trông rộng, biết cách chọn người tài, đứng đầu nhưng vẫn lắng nghe ý kiến từ nhiều phía để có cái nhìn đúng đắn nhất về sự việc.
Đặc biệt mưu lược hơn người của Quang Trung thể hiện trong cách ông cầm quân, cách mà ông lãnh đạo binh sĩ của mình tiến công thần tốc ra Bắc, cùng với chiến thuật được lên trước đó vô cùng tinh vi, không có một kẽ hở nào trước cuộc tấn công quân Thanh ở Ngọc Hồi, sự tư duy khi ông cho người ghép ván, lấy rơm dấp ván đánh vào tâm lí quân địch khiến chúng hoảng sợ dẫm đạp lên nhau chạy về nước trước sự xuất hiện bất ngờ của quân ta, tính chất bất ngờ là vô cùng quan trọng trong trận thắng lần đó, sự kiêu căng chủ quan vì sức mạnh của bản thân mà coi thường quân dân ta đã dẫn tới thất bại của quân Thanh. Lúc quân thanh còn kiêu ngạo cả tướng lẫn quân cũng là lúc lực lượng của ta chuẩn bị chu đáo, biến đổi từng ngày một, không khinh thường địch, tinh thần dân tộc đồng lòng của nhân dân cũng là nguyên nhân to lớn nhất dẫn tới những trận thắng tiếp theo. vừa ca ngợi mưu trí song toàn của Quang Trung các tác giả nhà Ngô Gia Văn Phái cũng đã rất tinh tế trong tái hiện lại thảm cảnh vô cùng nhục nhã của bè lũ vua quan tướng Ngô Sĩ Nghị và sự mục nát, yếu ớt không có tinh thần của dưới thời vua Lê Chiêu Thống, những con người bất tài vô dụng đó người thì theo thuyền cá về phía Bắc lẩn trốn, người thì tháo chạy không kịp mặc giáp, không kịp đóng yên ngựa.
Ngòi bút tinh tế của mình các tác giả đã dựng lên một thảm cảnh vừa buồn cười vừa tủi nhục của chế độ mục nát, đồng thời ca ngợi sự tài tình của vua Quang Trung, tinh thần dân tộc của quân dân ta kiên cường, phản ánh trận chiến ác liệt và vẻ vang của chiến thắng trong giai đoạn lịch sử không thể quên.
Phân tích về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 3
Hoàng Lê nhất thống chí là một tác phẩm bằng chữ Hán của Ngô gia văn phái. Tác phẩm ghi chép về sự thống nhất của triều đại nhà Lê. Đoạn trích từ hồi thứ mười bốn đã sống lại sự anh dũng, hào hùng, và tài trí toàn diện của anh hùng áo vải Quang Trung. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự thất bại thảm hại của vua Lê Chiêu Thống và bè lũ cướp nước.
Trong tác phẩm, hai nhân vật chính nổi bật: anh hùng Nguyễn Huệ và vua Lê Chiêu Thống cùng bè lũ cướp nước. Tác giả đã khắc họa mỗi nhân vật một cách tài tình, vừa đảm bảo tính chân thực, vừa thể hiện được cá tính riêng của họ.
Về anh hùng Quang Trung, ông là một nhà lãnh đạo quyết đoán, trí tuệ sáng suốt. Ngay khi nghe tin quân Thanh tiến đến Thăng Long, ông đã nhanh chóng lên ngôi vua, để đưa quân ra Bắc. Cách làm việc của ông nhanh chóng, quyết đoán, và có tầm nhìn xa. Nếu ông không lên ngôi vua, việc lãnh đạo và chiến đấu sẽ gặp nhiều khó khăn.
Việc lên ngôi vua đã làm yên lòng dân và ông lập tức cầm quân ra Bắc. Trên đường tiến quân, ông đã gặp Nguyễn Thiếp, một người tài giỏi và mưu lược. Ông đã trân trọng và lắng nghe kế sách của Nguyễn Thiếp. Ông cũng rất trân trọng và ủng hộ những người tài. Khi đến Nghệ An, ông đã tuyển hơn một vạn tinh binh và mở cuộc duyệt quân lớn. Trước khi cầm quân ra Bắc, ông đã đọc lời phủ dụ binh lính, phơi bày âm mưu xâm lược của nhà Thanh, đồng thời tạo ra ý thức kỷ luật cho binh sĩ.
Những lời của ông như sấm vang, chớp giật, có tác động to lớn trong việc khích lệ tinh thần binh sĩ. Ông cũng là người rất sáng suốt, có tầm nhìn xa. Là một người tài giỏi, Quang Trung đã đoán biết được tình hình của địch và lên kế sách tiến đánh. Ông đã giành lại được Thăng Long chỉ trong mười ngày. Ông đã xuất quân từ Phú Xuân vào ngày 25 tháng Chạp và đến Ninh Bình vào ngày 30.
Và vào ngày thứ 30, Quang Trung bắt đầu tiến quân ra Thăng Long. Đây là một cuộc hành quân thần tốc, không giống như bất kỳ cuộc hành quân nào trong lịch sử của nước ta. Không chỉ thế, ông còn hiểu rõ bản chất của quân địch, là một nước lớn, và sau khi thua sẽ quay lại trả thù. Vì vậy, ngay sau khi giành chiến thắng, ông đã có chiến lược ngoại giao. Ông thật sự là một thiên tài, hiểu rõ những khó khăn, thách thức mà dân tộc phải đối mặt và đề xuất những chiến lược đúng đắn, là nền tảng cho chiến thắng lịch sử của quân dân ta.
Quang Trung cũng có tài dụng binh tài tình. Ông hiểu rõ điểm mạnh và điểm yếu của các tướng sĩ: ông rất nghiêm khắc khi trách mắng Sở và Lân để họ nhận thức được sự nghiêm trọng của vấn đề, nhưng cũng khen ngợi hành động của họ trong việc bảo toàn lực lượng. Ông đánh giá cao Ngô Thì Nhậm về sự mưu trí, mưu lược vượt trội hơn người. Ông thực sự là một tướng tài biết nhìn nhận tình huống và con người.
Kỹ năng lãnh đạo của ông xuất sắc, và chiến thuật chiến đấu của ông cũng không kém cạnh. Để tạo động lực cho quân đội, ông đã cho binh sĩ ăn tết trước và hẹn hò vào ngày mùng 7 tại Thăng Long. Không chỉ vậy, ông cũng đảm bảo yếu tố bất ngờ bằng cách bắt sống tất cả quân địch do thám và binh lính mới, khiến các đồn không thể truyền thông tin cho nhau. Ông đảm bảo yếu tố bất ngờ, điều này giúp ông tiến hành cuộc tấn công vào kẻ thù vào dịp tết Nguyên đán, khi chúng đang ngủ say trên chiến thắng, mải mê vui chơi, và không phòng bị.
Ông linh hoạt trong việc thay đổi chiến thuật: trong trận Hà Hồi, ông đã sử dụng nghi binh và đánh vào Ngọc Hồi bằng cách chế tạo các tấm ván ghép từ rơm ướt, từ đó giảm thiểu thương vong. Đặc biệt, ông còn ra trận đích thân, chỉ huy một hướng tiến công. Quang Trung là sự hòa quyện giữa vẻ đẹp, tinh túy và lòng dũng cảm của dân tộc.
Trái với vẻ đẹp oai phong của vua Quang Trung, quân tướng nhà Thanh thất bại thảm hại. Tôn Sĩ Nghĩ ban đầu dễ dàng xâm nhập vào nước ta nên luôn kiêu căng và tự mãn. Không hiểu rõ tình hình, chỉ biết vui chơi hưởng lạc. Hắn còn là kẻ tham sống, sợ chết, đã bỏ chạy trước khi chiến đấu: “ngựa chưa kịp đeo yên, người chưa kịp mặc giáp, đã dẫn bọn kỵ mã của mình chạy trước qua cầu phao, sau đó rẽ hướng bắc để chạy trốn”. Một số kẻ đầu hàng, một số tự tử.
Thật là một bọn ngụy tạo, nhút nhát và vô tài. Trong đoạn văn này, việc miêu tả của tác giả đã được phát huy hết hiệu quả, kết hợp với nhịp điệu nhanh, gấp gáp để thể hiện sự hoảng loạn và thất bại thảm hại của đối thủ. Đồng thời, nó cũng cho thấy âm điệu hân hoan, sung sướng trước chiến thắng của quân ta và sự thất bại to lớn của quân địch.
Còn về phía vua Lê Chiêu Thống, khi biến loạn xảy ra và quân Thanh tan rã, ông ta sợ hãi vô cùng, bỏ chạy, thậm chí còn cướp thuyền của dân để băng qua sông. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc phải cạo đầu, cắt tóc, mặc trang phục như người Mãn. Thật là đáng thương khi từ một vị vua đứng đầu hàng vạn dân, chỉ vì lợi ích cá nhân và dòng họ, Lê Chiêu Thống đã bán nước và phải chịu sự nhục nhã vì mất nước, rời xa quê hương.
Mặc dù cũng miêu tả về thất bại, nhưng nhịp điệu trong đoạn văn này lại chậm hơn. Nó thể hiện sự đau thương, tiếc nuối về số phận của Lê Chiêu Thống. Vì dù sao ông cũng là một người tôn trọng truyền thống nhà Lê, trước sự sụp đổ của triều đại mà ông thời gian trước đã tôn thờ, không khỏi mang nỗi tiếc nuối, ân hận.
Tác phẩm không chỉ nổi bật về nội dung mà còn thu hút người đọc bằng nghệ thuật diễn đạt tinh tế. Ghi lại những sự kiện lịch sử qua từng giai đoạn, cho thấy bầu không khí cấp bách, hối hả và chiến thắng vẻ vang của quân ta. Nghệ thuật phác họa nhân vật sống động, hấp dẫn. Mỗi trận đánh được miêu tả chi tiết, cho thấy sức mạnh hùng hậu của quân ta và thất bại bi tráng của quân địch. Nghệ thuật tương phản giữa chúng ta và đối thủ: một bên yếu đuối, nhát gan, một bên hùng mạnh, thông minh, tài lược.
Qua chương mười bốn của Hoàng Lê Nhất thống chí, tác giả đã mang đến cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về vẻ đẹp anh hùng, dũng cảm, tài lược của anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ. Chiến thắng kiên cường, vẻ vang của nhân dân ta trước kẻ thù. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự thất bại thảm hại của nhà Thanh, và số phận bi thảm của vua Lê Chiêu Thống.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 4
Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm được viết bởi một số thành viên trong dòng họ Ngô Thi. Có thể hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du đã viết trong các thời kỳ khác nhau.
Ngô Thì Chí (1758 – 1788) là em ruột của danh nhân Ngô Thì Nhậm. Ông là một quan nhỏ dưới triều Lê Chiêu Thống và là người đồng lòng với ông ta trong những cuộc chiến tranh khó khăn. Ông được vua Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn để tập hợp binh sĩ chống lại phong trào Tây Sơn. Tuy nhiên, ông mất đời sớm khiến công việc viết sách của ông chưa hoàn thiện.
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em ruột với Ngô Thì Chí, ông là một học giả nhưng không nổi tiếng. Dưới thời Tây Sơn, ông sống êm đềm ở Kim Bảng, Hà Nam. Dưới thời Nguyễn, ông đã làm quan và được bổ nhiệm làm Đốc học Hải Dương. Ông tiếp tục viết phần tiếp theo của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí sau khi Ngô Thì Chí qua đời, nhưng cuối cùng ông đã rời bỏ công việc này và về nghỉ hưu.
Hoàng Lê nhất thống chí là một cuốn sách ghi chép về những sự kiện của triều đại nhà Lê. Dù viết theo kiểu tiểu thuyết chương hồi, tác phẩm vẫn mang tính chính xác lịch sử cao. Mặc dù có nhiều tác giả và viết vào nhiều thời kỳ khác nhau, nội dung vẫn giữ được tính nhất quán và rõ ràng.
Trong văn học Việt Nam thời trung đại, tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí được coi là một trong những tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán có quy mô lớn nhất và đạt được thành công xuất sắc nhất trong lĩnh vực tiểu thuyết.
Tác phẩm đã phản ánh một cách sinh động và chân thực bối cảnh lịch sử đầy biến động của Việt Nam trong hơn ba thập kỷ cuối của thế kỷ XVIII và những năm đầu của thế kỷ XIX.
Câu chuyện bắt đầu với sự suy tàn, sụp đổ tận cùng của các thế lực phong kiến. Thời kỳ của triều Lê, các vị vua không đủ năng lực để lãnh đạo. Vua Lê Hiển Tông yếu đuối, chỉ biết trách móc số phận và sống trong buồn phiền. Câu nói nổi tiếng của ông là: 'Chúa gánh lo, ta hưởng vui'. Vua Lê Chiêu Thống thì nhượng nhịn và đầu hàng trước Mãn Thanh, chỉ mong cứu vãn ngôi vua suy tàn. Và vua cuối cùng là Lê Duy Mật, được xem như không có giá trị gì ngoài việc là một con rối trong tay người khác.
Trong khi đó, phủ Chúa Trịnh Sâm sống xa hoa, say sưa và đầy mưu mô. Vì tình yêu với Đặng Thị Huệ, Chúa Trịnh đã sẵn lòng phế bỏ con trưởng và lập con thứ, gây ra cuộc loạn trong triều đình. Anh em Trịnh chém giết nhau, và quân lính ỷ lại quyền lực, gây ra sự bất ổn. Trong tình hình này, phong trào nổi dậy của Tây Sơn trở thành điều không thể tránh khỏi.
Nguyễn Huệ đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn. Tuy nhiên, thời kỳ của nhà Tây Sơn chỉ kéo dài trong thời gian ngắn. Thế lực của phong trào Tây Sơn dần suy yếu, mở đường cho sự hồi phục của phong trào Nguyễn. Cuối cùng, vương triều mới của Nguyễn được lập nên vào năm 1802. Kết thúc của tác phẩm là hình ảnh thảm hại, nhục nhã của vua Lê Chiêu Thống khi phải lưu vong ở đất khách.
Tất cả các sự kiện lịch sử được ghi chép rất chi tiết và tỉ mỉ bởi các tác giả. Trong bối cảnh của thời kỳ hỗn loạn đó, nhân vật của vua Quang Trung Nguyễn Huệ nổi bật lên, là biểu tượng của sức mạnh quật cường của dân tộc.
Hồi thứ mười bốn mô tả diễn biến của nhiều tình tiết và sự kiện. Để hiểu rõ hơn đoạn trích này, chúng ta cần phải tìm hiểu về nội dung của hồi mười hai và mười ba. Khi Nguyễn Huệ dẫn quân ra Bắc lần thứ hai để bắt viên quan phản bội Vũ Văn Nhậm, vua Lê Chiêu Thống hoảng sợ và rút lui về vùng biên giới phía Bắc.
Tuy nhiên, nhóm nghĩa binh của Lê Chiêu Thống không đủ sức để đối địch với quân Tây Sơn. Vì vậy, Lê Chiêu Thống sai hai viên quan Lê Duy Đản và Trần Danh Án bí mật trốn sang Trung Quốc, gặp viên Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị để cầu viện. Tôn Sĩ Nghị lợi dụng cơ hội này để xin quân Mãn Thanh đánh chiếm nước ta.
Được phân công, Tôn Sĩ Nghị dẫn quân sang với danh nghĩa phục Lê, tiêu diệt Tây Sơn. Trước quân giặc mạnh, quân Tây Sơn phải rút về Tam Diệp để cố thủ. Quân giặc tiến vào Thăng Long mà không gặp phản kháng nào, tự mãn kiêu căng. Lê Chiêu Thống trở về và được trao tước hiệu An Nam Quốc Vương.
Phần đầu của hồi thứ mười bốn nói về việc Tôn Sĩ Nghị kéo quân vào Thăng Long, thấy dễ dàng và không gặp phản kháng. Điều này làm cho vua Lê Chiêu Thống, đã biết về tài năng của Nguyễn Huệ, rất lo lắng.
Tôn Sĩ Nghị, một tướng quân đặc biệt ở Thăng Long, dường như chỉ quan tâm đến việc thưởng thức cuộc sống vui vẻ và không để ý đến việc huấn luyện quân lính. Thậm chí, ông ta thường bỏ rơi đội ngũ của mình để lang thang một mình, không tuân thủ kỷ luật. Thái hậu lo sợ khi thấy thái độ thiếu trách nhiệm của ông đối với cuộc chiến chống lại thực dân Thanh và vua Lê Chiêu Thống. Ông ta có nguy cơ phải thất bại và phải tìm sự ẩn náu ở Trung Hoa.
Trong bài viết này, tác giả mô tả rõ nét hình ảnh của Nguyễn Huệ như một anh hùng dân tộc, người đã dẹp tan quân Thanh và đưa vua Lê Chiêu Thống ra tòa. Ông miêu tả sự thất bại của quân Thanh và số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống khi phản dân.
Từ đầu đến cuối đoạn văn, Nguyễn Huệ được mô tả như một người lãnh đạo thông minh, quyết đoán, hành động nhanh chóng và mục tiêu rõ ràng. Ngay khi nghe tin quân Thanh xâm nhập Thăng Long, Nguyễn Huệ đã lãnh đạo quân đội và hành quân ngay lập tức. Trong hơn một tháng, ông đã thực hiện nhiều chiến công lớn, bao gồm tuyên bố vua, tuyển mộ quân lính, và tổ chức cuộc duyệt binh ở Nghệ An.
Một yếu tố quan trọng cần phải xem xét trong văn bản này là tác giả. Tác giả không chỉ mô tả hiện thực một cách khách quan mà còn thể hiện quan điểm chính trị, xã hội của mình.
Tác giả của cuốn sách Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái, là một nhóm tác giả chân thành với nhà Lê. Mặc dù trong quan điểm của phong kiến, vua Quang Trung có thể bị coi là kẻ nghịch tặc, nhưng trong tác phẩm, hình ảnh của Quang Trung - Nguyễn Huệ được vẽ nét sắc sảo với tài cầm quân uyên bác, quyết đoán và nhiều phẩm chất tốt.
Các chi tiết và sự kiện trong đoạn này cho thấy vua Quang Trung là người mạnh mẽ, quyết đoán nhưng không bao giờ độc đoán. Ông luôn lắng nghe ý kiến của dân và chỉ xuất quân sau khi chắc chắn lòng dân ủng hộ. Khi nghe tin quân Thanh sắp bị tiêu diệt, ông vui mừng và nhanh chóng tuyển quân để tiến vào trận.
Điều này thể hiện rõ sự quan tâm của Quang Trung đến ý kiến của dân. Khi một người cống sĩ nói rằng quân Thanh sẽ bị đánh bại trong mười ngày, ông rất vui vẻ, không chỉ vì người nói đúng ý mình mà còn vì sự ủng hộ mạnh mẽ từ dân. Ngay sau đó, ông tuyển quân và sớm có được một lực lượng hùng mạnh.
Văn phong của vua Quang Trung rất thuyết phục, vừa khéo léo vừa mạnh mẽ, hợp tình hợp lý. Ông biết cách làm cho binh lính tin tưởng và quyết tâm chống giặc bằng cách nói chuyện cởi mở, giảm thiểu sự căng thẳng và tôn trọng binh lính. Ông cũng không quên đề cập đến việc trừng phạt những kẻ phản bội, đảm bảo lòng tin từ binh lính.
Tuyên ngôn và hành động của vua Quang Trung hợp lý và đồng lòng với dân. Ông khiến binh lính cảm thấy cảm kích và quyết tâm hơn trong cuộc chiến. Điều này góp phần quan trọng vào chuỗi chiến thắng của quân Tây Sơn dưới thời ông.
Trong phần tiếp theo, mặc dù tập trung vào các sự kiện chiến trận, nhưng vẫn giữ được sự nổi bật của tài năng lãnh đạo của vua Quang Trung. Ông thực hiện các biện pháp chiến lược một cách thông minh và tinh tế, làm cho quân Thanh bị bất ngờ và không thể chống cự.
Phần kết của đoạn này tập trung vào cuộc tháo chạy hỗn loạn và sự nhục nhã của quân quan nhà Thanh. Dù đông hơn quân Tây Sơn, nhưng trước sức tấn công quyết định của vua Quang Trung và dưới sự chỉ huy của một tướng tài ba, họ không còn sức mạnh để chống lại.
Trong phần này, tác giả diễn tả sự hả hê, vui sướng khi nói về chiến thắng của quân Tây Sơn và sự thảm hại của quân Thanh. Đối lập với sự mỉa mai, châm biếm khi nói về Tôn Sĩ Nghị, người viết đã phản ánh được tinh thần lạc quan, tự hào của dân tộc sau chiến thắng.
Đoạn này khẳng định thái độ của tác giả khi viết về vua nhà Lê. Dù luôn tôn trọng tư tưởng trung nghĩa, nhưng trước sự nhu nhược của các vị vua nhà Lê, tác giả vẫn lên án một cách mỉa mai. Số phận của những kẻ phản dân và lũ cướp nước cũng bị lên án không kém.
Cuộc đại phá quân Thanh xâm lược là một sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc Việt Nam. Vị anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ với tài năng và lòng yêu nước đã ghi dấu ấn sâu đậm trong trái tim của mọi người. Tác phẩm này của Nhóm Ngô gia văn phái đã tái hiện một cách chân thực và sinh động.
Phân tích về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 5
Khi nói về văn học trung đại Việt Nam, không thể không nhắc đến tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Nhóm Ngô gia văn phái. Tác phẩm này không chỉ là một ví dụ xuất sắc của thể loại văn học, mà còn thông qua lối viết chân thực và sắc sảo để thể hiện bản lĩnh của anh hùng Nguyễn Huệ, cũng như sự thất bại của vua Lê Chiêu Thống và quân Thanh. Điều này được rõ ràng phản ánh trong hồi thứ mười bốn của tác phẩm.
Tác phẩm này được viết theo thể loại 'chí', một dạng văn cổ ghi chép sự kiện lịch sử. Gồm 17 hồi, viết từ cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn, với sự đóng góp của nhiều tác giả khác nhau.
Trong Hồi thứ 14 của tác phẩm, tác giả tả cảnh đánh Ngọc Hồi, sự thua trận của quân Thanh, rút lui từ Thăng Long, và việc vua Lê Chiêu Thống phải lẩn trốn. Đồng thời, tác giả ca ngợi chiến thắng của Quang Trung và quân Tây Sơn, và sự thất bại của quân Thanh và lãnh đạo của họ.
Đoạn này mô tả sự xuất hiện của Nguyễn Huệ, với sự tài năng và quyết đoán. Nguyễn Huệ được miêu tả như một anh hùng vĩ đại và tài năng, người có thể dẫn dắt quân đội vượt qua mọi thách thức.
Khi quân Thanh xâm nhập Thăng Long, Nguyễn Huệ tức giận và muốn tiêu diệt kẻ thù ngay lập tức. Tuy nhiên, sau lời khuyên của các tướng sĩ, ông quyết định tế cáo trời đất lên làm vua, lấy niên hiệu Quang Trung, trước khi ra lệnh xuất quân. Hành động này của Nguyễn Huệ không chỉ chứng tỏ tài năng của ông mà còn cho thấy sự lắng nghe và cân nhắc của một lãnh đạo xuất sắc.
Tài năng lãnh đạo quân sự của Nguyễn Huệ được thể hiện rõ qua cuộc hành quân nhanh chóng đến Thăng Long. Ông chọn thời điểm chiến đấu vào những ngày gần Tết Nguyên Đán, khi kẻ thù không chú ý đến phòng thủ và dễ bị tiêu diệt. Trên đường đi, ông còn thu phục thêm quân lính, và chỉ trong ít ngày Nguyễn Huệ và quân đội của ông đã đến được Bắc Hà.
Trước khi bước vào trận đánh, Nguyễn Huệ đã khích lệ tinh thần yêu nước và căm hận kẻ thù trong lòng các tướng sĩ: “Người phương Bắc không phải là dòng dõi của chúng ta, họ luôn là kẻ thù. Từ thời Hán đến nay, chúng ta đã chịu nhiều tổn thất từ chúng, và giờ là lúc đuổi chúng trở lại phương Bắc”. Lời dụ của ông giống như bài hịch hùng tráng của Trần Quốc Tuấn, đầy sức thuyết phục.
Trong việc sắp xếp quân lính, Nguyễn Huệ đã thể hiện sự xuất sắc. Ông nhận thức được điểm yếu của mình, và để lại cho Ngô Thì Nhậm vị trí chỉ huy vì ông biết ông ta có mưu lược hơn. Sự đánh giá của ông chính xác, khi Ngô Thì Nhậm biết cách tránh những tình huống nguy hiểm, và không trách mắng các tướng sĩ khác.
Ngoài ra, Nguyễn Huệ còn là một người có tầm nhìn xa trông rộng, có khả năng dự đoán chiến thắng và lên kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng. Ông đã sử dụng Ngô Thì Nhậm để thương thuyết với địch, giúp dân ta nghỉ ngơi và xây dựng đất nước. Ông thực sự là một vị vua có tâm và tầm nhìn.
Đặc biệt đẹp đẽ là hình ảnh của Quang Trung trong trận chiến, tràn đầy khí thế và quyết tâm, đánh bại quân địch một cách quả cảm. Với sự tôn trọng và lòng ngưỡng mộ chân thành đối với vua Quang Trung, các tác giả Ngô gia văn phái đã mô tả hình ảnh của ông một cách sống động và chân thực, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Kế bên bức tranh anh hùng của Quang Trung là hình ảnh của những kẻ phản quốc tàn nhẫn, đặc biệt là vua Lê Chiêu Thống. Ông và các thân tín của mình đã vì lợi ích cá nhân mà đặt cả quốc gia vào tay kẻ thù xâm lược. Tự nhiên, họ phải chịu sự nhục nhã và đau khổ. Ông Lê Chiêu Thống từ một vị vua đã trở thành một kẻ tội nghiệp, phải bỏ chạy sang phương Bắc và kết thúc cuộc đời tại một nơi xa lạ.
Trái ngược với hình ảnh của quân Tây Sơn, là hình ảnh của kẻ thù xâm lược, đặc biệt là Tôn Sĩ Nghị. Hắn là một kẻ tự cao tự đại, kiêu căng và chủ quan, dẫn dắt quân đội dễ dàng vào Thăng Long như đi trên đất phẳng, coi thường mọi đe dọa.
Khi quân Tây Sơn tiến đến, các tướng lãnh thì nhát gan và thiếu trách nhiệm, ngựa chưa kịp cưỡi, quân lính chưa kịp mặc áo giáp... họ lao ra cầu phao. Quân lính “rụng rời, hoảng sợ, bỏ chạy, đẩy nhau qua cầu, rơi xuống sông và chết hàng loạt”, “nước sông Nhị Hà trở nên tắc nghẽn không thể chảy”. Miêu tả sự thất bại, sự trốn chạy của quân tướng nhà Thanh với tốc độ và sức mạnh, thể hiện tâm trạng vui mừng, hạnh phúc của người viết.
Với quan điểm lịch sử chính xác của các nhà sử học, Ngô gia văn phái đã ghi lại một cách chân thực và sắc nét hình ảnh hào hùng của anh hùng Quang Trung. Bên cạnh đó là sự thất bại của vua Lê Chiêu Thống và quân tướng nhà Thanh. Đoạn trích được diễn đạt theo dòng thời gian, với giọng điệu linh hoạt, từ trầm buồn đến hối hả, thể hiện tài năng kể chuyện của tác giả.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 6
'Hoàng Lê nhất thống chí' là một tác phẩm lịch sử được viết theo dạng chương hồi bởi một số tác giả trong nhóm 'Ngô gia văn phái'. Tác phẩm này tổng hợp và khái quát một giai đoạn lịch sử đầy biến động và đẫm máu của Việt Nam, từ thời Trịnh Sâm lên ngôi Chúa đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà (1802-1868), bao gồm các sự kiện như cuộc loạn kiêu binh, sụp đổ của triều đại Lê-Trịnh, cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Tây Sơn, và chiến công lịch sử của Nguyễn Huệ đánh bại quân Thanh.
Sự sụp đổ không thể tránh khỏi của triều đại Lê-Trịnh và sức mạnh bùng nổ của phong trào nông dân Tây Sơn là hai điểm nổi bật được tái hiện trong 'Hoàng Lê nhất thống chí'. Đặc biệt, Hồi thứ 14 của tác phẩm mô tả một cách hùng vĩ sức mạnh đối đầu của dân tộc Việt Nam với kẻ thù ngoại xâm và vẽ nên hình ảnh vĩnh cửu của Nguyễn Huệ - anh hùng dân tộc - qua trận chiến Đống Đa.
Chúng ta như được sống lại những khoảnh khắc lịch sử hào hùng và gay cấn của dân tộc vào cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỷ Dậu (1789) khi Lê Chiêu Thống đưa 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy sang xâm lược nước ta. Bằng cách khai thác nội dung của 'Hoàng Lê nhất thống chí', tác giả đã mô tả một cách sinh động sự kiện này:
'Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua trận,
Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài'
Vào ngày 22 tháng 11 năm Mậu Thân, Thăng Long bị chiếm bởi Tôn Sĩ Nghị và quân Thanh. Tướng Ngô Văn Sở đã rút quân về Tam Điệp để chuẩn bị cho một cuộc chống lại kẻ xâm lược. Ngày 24, tin tức về sự kiện này đã được Nguyễn Huệ nhận được, và vào ngày 25, ông đã lên ngôi Hoàng đế, 'tế cáo trời đất cùng các thần Sông, thần Núi', với niên hiệu là Quang Trung. Nguyễn Huệ đã ra lệnh cho quân đội ra Bắc, và vào ngày 29 đã tuyển thêm một vạn quân tinh nhuệ tại Nghệ An.
Nguyễn Huệ tổ chức duyệt binh truyền hịch đến quân Thanh, để lộ bí mật của chúng 'với âm mưu định chiếm nước Nam để làm quận huyện, kêu gọi tướng sĩ đoàn kết, hiệp lực, để đạt được thành tựu lớn'. Nhà vua chia quân thành năm doanh (tiền, hậu, tả, hữu, trung quân), sau đó ra sức hội quân tại Tam Điệp cùng với cánh quân của Ngô Văn Sở. Quang Trung chia đại quân thành năm đạo, cho quân ăn tết Nguyên Đán trước, 'bảo kín' với các tướng soái đến tận 30 vị rồi tấn công quân Thanh với tốc độ thần tốc, hẹn ngày mồng 7 năm mới để vào Thăng Long 'tổ chức tiệc mừng'.
Qua đó, ta thấy rõ Quang Trung có chiến lược sâu sắc, sáng suốt, giàu mưu mẹo, và tôn trọng tinh thần quyết định đánh bại kẻ thù xâm lược. Các sự kiện như lên ngôi hoàng đế tại Phú Xuân, việc tập hợp quân và truyền hịch tại Nghệ An, cho quân sĩ ăn tết Nguyên Đán trước; đặc biệt, việc tấn công quân Thanh vào dịp tết khi chúng 'chỉ tập trung vào việc thưởng thức tiệc tùng vui vẻ, không chú ý đến các vấn đề chiến lược' đã thể hiện tài năng lãnh đạo vượt trội của một thiên tài quân sự khi đất nước đang gặp nguy hiểm.
Tác giả đã mượn lời của một quan nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ trước khi trận Ngọc Hồi diễn ra: 'Không ai biết rằng, Nguyễn Huệ là một anh hùng lão luyện, mạnh mẽ và thông thái trong việc lãnh đạo quân đội. Khi đi từ Bắc vào Nam, anh ẩn mình như một linh hồn, không ai có thể đoán được. Anh bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết lợn con mà không một ai dám nhìn thẳng vào mắt anh. Khi anh chỉ tay, và nhìn ra, mọi người đều mất hồn, sợ hơn cả sấm sét.'
Nguyễn Huệ là một vị anh hùng tài ba trong việc chỉ huy quân đội, lên kế hoạch quân sự như một vị thần. Anh đã tổ chức cuộc tấn công thành công, bắt sống toàn bộ quân Thanh đi do thám tại Phú Xuyên, dùng mưu lạc quyết và bao vây làng Hà Hồi, khiến quân Thanh ' rơi vào trạng thái sợ hãi', buộc họ phải đầu hàng. Anh cũng sử dụng một chiến thuật tinh vi bằng cách ghép ba tấm ván lại với nhau thành một bức tường và phủ kín bằng rơm và đất, mỗi bức tường có 20 người dũng cảm, cầm dao ngắn, tạo thành hình chữ 'nhất', và tiến vào đồn Ngọc Hồi một cách dũng mãnh.
Tất cả súng của quân Thanh đều trở nên vô dụng. Vua Quang Trung một mình cưỡi voi dũng mãnh vào trận chiến. Vào mồng 5, đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống buộc phải tự tử, hàng vạn quân Thanh bị giết 'thây nằm đầy đồng, máu chảy thành dòng, quân Thanh chịu thất bại nặng nề'. Vua đã triển khai binh lực tại đê Yên Duyên và Đại Áng, và bao vây quân Thanh tại Quỳnh Đô, khiến giặc phải lẩn trốn xuống Đầm Mực và bị Tây Sơn vây hãm 'như bắt voi để giày đạp, dẫn đến hàng vạn quân Thanh chết'.
Sau chiến thắng, vua Quang Trung tiến vào giải phóng Kinh Thành Thăng Long đúng vào buổi trưa mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, sớm hơn kế hoạch hai ngày. Với tài năng tư duy chiến lược xuất sắc, tin vào sức mạnh chiến đấu và tinh thần yêu nước của các tướng sĩ và nhân dân, chúng ta mới có niềm tin vào chiến thắng quyết định đó. Chiến thắng tại Đống Đa năm 1789 đã làm rạng ngời tên tuổi của người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ suốt hàng ngàn năm.
Các tác giả của 'Hoàng Lê nhất thống chí' trước đó đã từng hưởng ơn của nhà Lê, một số người có tình cảm đặc biệt với nhà Lê. Tuy nhiên, khi đối mặt với nguy cơ xâm lược và thành công vang dội tại Đống Đa, họ đã đứng về phía lập trường dân tộc, viết ra những tác phẩm văn xuôi tuyệt vời nhất, tạo dựng nên một bức tượng lớn lao, lộng lẫy cho người anh hùng Nguyễn Huệ. Chỉ một vài năm sau, trong bài thơ 'Ai tu vãn' gửi lời tang vua Quang Trung qua đời, công chúa Ngọc Hân đã viết:
'Bằng chiếc áo vải của cờ đào,
Giúp dân xây dựng đất nước bằng bao công trình.'
Đó là hình tượng của người anh hùng Quang Trung trong văn học mà chúng ta cảm nhận được và mà hàng triệu người ngưỡng mộ. Bằng cách sử dụng kỹ thuật so sánh đối lập, các tác giả của 'Hoàng Lê nhất thống chí' đã mô tả và nhấn mạnh vào sự thảm hại của quân Thanh xâm lược và số phận đáng tiếc, bi kịch của những kẻ vua phản nước gây hại cho dân tộc.
Tôn Sĩ Nghị là chỉ huy của 29 vạn quân Thanh đổ về xâm lược đất nước ta. Sau khi chiếm được Thăng Long 'mà không gặp phải một lời đối kháng, như đi vào nơi đông người', hắn tỏ ra vô cùng 'kiêu căng và táo tợn'. Các tướng lãnh chỉ biết 'tiếp tục tiệc tùng và vui chơi, không để ý gì đến việc quân đội'. Chúng tự tin tuyên bố rằng vào đầu xuân, họ sẽ đưa quân tiến thẳng đến căn cứ của Tây Sơn để 'bắt sống, không để lọt một tên nào'.
Tuy nhiên, trước cuộc tấn công dữ dội của Nguyễn Huệ như cơn bão, nhiều đồn giặc đều tan tác. Đồn Hà Hồi phải đầu hàng. Đồn Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống tự vẫn. Hàng vạn kẻ thù thất trận ở đầm Mực. Tôn Sĩ Nghị 'sợ mất mật, ngựa chưa kịp đóng yên, người chưa kịp mặc giáp...trốn về phía Bắc'. Các tướng lính 'hoảng hốt, tan tác bỏ chạy'. Họ xô đẩy nhau, lao xuống sông. Cầu phao bị đứt, hàng vạn kẻ thù chết đuối, nước sông Nhị Hà bị nghẽn lại. Những kẻ sống sót chạy trốn quay về nước!
Những kẻ phản quốc như Lê Chiêu Thống, Lê Quýnh, Trịnh Hiến đang trên đường chạy trốn trở thành bọn cướp. Họ hoảng sợ vô cùng khi gặp một chiếc thuyền đánh cá và đã vội vàng cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Tại cửa ải, Lê Chiêu Thống và đám thân tín 'thảo luận, oán giận, rơi nước mắt', trông thực sự tội nghiệp và nhục nhã. Tôn Sĩ Nghị cũng rơi vào tình cảnh đáng xấu hổ. Mặc dù chết, nhưng họ không chịu thua cuộc! Lê Chiêu Thống hứa 'sẽ lại xin sang phục vụ quân tướng', ý là tiếp tục làm nô lệ cho kẻ thù! Trong khi đó, Tôn Sĩ Nghị vẫn tỏ ra kiêu căng: 'Nguyễn Quang Trung chưa bị tiêu diệt, việc này chưa kết thúc!'
Có thể nói, hình ảnh của lũ xâm lược và những kẻ bán nước được miêu tả với nhiều chi tiết châm biếm, thể hiện sự khinh bỉ sâu sắc. Đọc Hồi thứ 14 của 'Hoàng Lê nhất thống chí', ta càng hiểu rõ tâm tư đen tối của quân xâm lược phương Bắc và kế hoạch của Thiên triều, cũng như bộ mặt đáng ghê tởm của những kẻ phản nước. Điều này khiến ta càng tự hào hơn về truyền thống yêu nước và anh hùng của dân tộc, cùng tôn kính và biết ơn Nguyễn Huệ, một nhà quân sự tài ba của Đại Việt.
Nghệ thuật kể chuyện, cách miêu tả nhân vật lịch sử (Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị) rất chân thực và sinh động, tạo ra những đoạn văn hùng tráng tuyệt vời không chỉ giàu giá trị văn học mà còn sâu sắc về lịch sử.
Phân tích tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí - Mẫu 7
Nhóm Ngô gia văn phái, với các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, đã để lại dấu ấn đặc biệt trong văn học, đặc biệt là với tác phẩm lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí. Cuốn sách này tổng hợp một giai đoạn lịch sử từ thời chúa Trịnh Sâm đến khi Gia Long chiếm Bắc Hà.
Hồi thứ 14 đã phác họa một cách sống động về sức mạnh và tinh thần quật khởi của dân tộc trước mối đe dọa từ ngoại xâm cùng với chiến công vĩ đại của anh hùng Nguyễn Huệ. Cuối năm 1788 và đầu năm 1789, Lê Chiêu Thống đã dẫn 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở rút lui về Tam Điệp để chống lại.
Trong bối cảnh đó, Nguyễn Huệ được coi như một anh hùng của dân tộc. Ông lên ngôi hoàng đế vào ngày 25, 'tế cáo đất trời cùng các non sông, thần núi' rồi đưa quân ra Bắc. Ông cũng tuyển chọn những đội quân tinh nhuệ và có tinh thần yêu nước, kháng chiến để tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước.
Ngày 30 tháng Một, Nguyễn Huệ đã tổ chức tiệc thiết đãi quân nhân, dự định vào mồng 7 sẽ vào thành Thăng Long để tổ chức tiệc mừng. Có thể thấy Nguyễn Huệ là một người quyết đoán, mạnh mẽ, với tư duy lớn trong việc đánh giá tình hình. Ông cũng là người nhìn xa trông rộng, biết địch biết ta, có tài thao lược xuất sắc. Những dự định trong cuộc kháng chiến của Nguyễn Huệ được coi như một dấu hiệu của sự thông minh phi thường.
Trong cuộc kháng chiến, hình ảnh anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên với vẻ ngoài oai vệ, vĩ đại. Quân Thanh khi thấy vua đã bỏ chạy tán loạn đến làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, trong khi quân ta bao vây làng, thông báo rằng quân Thanh đã đầu hàng và phải đưa ra hàng lương thực. Mùng 5 Tết, vua đã gửi quân làm sáu chục tấm ván, ghép ba tấm lại với nhau, phủ bằng rơm và nước, mỗi bức với mười người, cầm binh khí tiến vào đồn, tạo ra hình chữ 'nhất'.
Dưới tình hình đó, mọi phản công của địch đều trở nên vô nghĩa. Quân Thanh đã tự gây hại cho mình khi sử dụng súng phun khói, làm cho quân ta bối rối, nhưng lại làm tổn thương cho chính bản thân họ. Ngay lập tức, Nguyễn Huệ đã sai đội quân mang ván che và xông thẳng về phía trước, khi gươm giáo chạm nhau, họ vứt bỏ ván xuống đất và chém bằng dao ngắn. Trận chiến kết thúc với hình ảnh 'quân Thanh thây nằm rải rác, máu chảy thành suối, quân Thanh thảm bại'.
Quang Trung cưỡi voi tiến vào Thăng Long để giải phóng toàn dân tộc vào trưa mùng 5 Tết Kỷ Dậu.
Trước cảnh đó, quân Thanh bị đánh bại thảm hại trong khi hưởng niềm vui ăn mừng, không để ý đến việc lớn. Cách mô tả cụ thể, chi tiết, sống động về quân Thanh thất bại tan tác, bỏ chạy, thể hiện rõ sự thất bại đến thảm hại của họ. Ngược lại, quân ta mạnh mẽ, như 'tướng ở trên trời xuống, quân dưới đất chui lên'.
Sự khắc họa về cảnh thất bại thảm hại của quân Thanh được Ngô gia văn phái miêu tả rất rõ. Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, cứ nhằm hướng Bắc chạy. Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử, quân nhà Thanh đều 'hoảng hồn, tan tác bỏ chạy' khắp nơi, tranh nhau xô đẩy xuống sông, giẫm đạp lên nhau mà chết. Lê Chiêu Thống cũng vội vã bỏ chạy, cướp thuyền để đi.
Đoạn trích Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí là một đoạn trích độc đáo, sinh động, và đầy ấn tượng. Có nhiều điểm nhấn về nghệ thuật đáng lưu ý trong đoạn trích này, giúp làm nổi bật nội dung của câu chuyện. Giọng điệu linh hoạt thể hiện sự biến động trong cách kể chuyện, tạo cảm giác cho người đọc như đang trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến hùng hồn do Quang Trung - Nguyễn Huệ thao lược.
Cùng với đó là việc mô tả hình ảnh các nhân vật với những đặc điểm nổi bật, độc đáo. Tướng vua tôi Lê Chiêu Thống và quân Thanh đều thất bại thảm hại. Trong khi đó, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ hiện ra với tư tưởng, vóc dáng kiêng cố, không khuất phục.
Trích đoạn 'Hồi mười bốn' của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí cho thấy sự độc ác của quân xâm lược đối với dân tộc ta. Đồng thời, trích đoạn này cũng thể hiện sự đoàn kết của dân tộc và tài thao lược, mưu mẹo xuất sắc của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Phân tích Hồi mười bốn của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí
Đất nước Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với nhiều biến cố, và các sự kiện lớn đã làm nên nguồn cảm hứng cho các nhà văn. Trong thời kỳ cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, các nhà văn của Ngô gia văn phái đã ghi lại những sự kiện quan trọng thông qua tác phẩm 'Hoàng Lê nhất thống chí'. Tác phẩm này thể hiện tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc, thậm chí còn vượt trội hơn cả sự thiên vị với triều đình Lê. Điều này đã mang lại những chi tiết thực tế và sâu sắc, nhất là trong Hồi mười bốn.
Nhóm các nhà văn Ngô gia văn phái là những người anh em trong dòng họ Ngô, phục vụ cho triều đình nhà Lê. Trong thời kỳ triều đình nhà Lê suy tàn, nhiều cuộc nổi dậy đã xảy ra, đặc biệt là phong trào Tây Sơn do anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dẫn đầu. Các nhà văn của họ Ngô đã tái hiện một cách chân thực và khách quan nhất về thời kỳ đó.
Hồi mười bốn, tác giả đã tái hiện một cách sống động nhất về chiến thắng hào hùng của Nguyễn Huệ cùng với sự thất bại bi kịch của quân Thanh và vua Lê phản quốc. Mặc dù làm việc cho triều Lê, nhưng tác giả họ Ngô đã nhìn nhận mọi sự việc vô cùng khách quan, đánh giá đúng đắn về những điểm mạnh và yếu. Nhờ đó, những trang lịch sử được viết ra đã trở nên 'thực và hay' đến thế.
Nổi bật nhất trong hồi 14 là hình ảnh người anh hùng áo vải dũng mãnh cầm quân, đó chính là Nguyễn Huệ. Ông có cái nhìn tổng quát về thời cuộc, khả năng nhìn xa trông rộng, tính toán chính xác từng bước đi. Khi biết quân Thanh đã đến Thăng Long mà không gặp một chút khó khăn, ông tức giận nhưng không nao núng, mà quyết tâm cầm quân xuất phát ngay. Chỉ trong một tháng, ông đã thực hiện nhiều công việc lớn, từ tế cáo đất trời, lên ngôi vua và lấy hiệu Quang Trung, với mục tiêu dẹp loạn phương Bắc. Ông đã cầm quân ra đi, trên đường không ngừng tuyển binh, huấn luyện để tạo ra một đội quân mạnh mẽ. Những hành động đó thể hiện sự quyết đoán và thông minh của vua Quang Trung. Ông họp bàn với các tướng sĩ, đưa ra chiến lược và khẳng định 'sau mười ngày sẽ đánh đổ quân Thanh'. Ngoài ra, ông còn tìm cách hòa giải với quân Thanh, vì ông tin rằng đất nước cần yên bình, phát triển và cần có lực lượng mạnh để bảo vệ.
Từ trước cuộc chiến đến khi tham gia, Quang Trung đã chứng minh mình là một nhà tướng kiệt xuất. Ông có khả năng sử dụng binh lính tài ba. Ông chỉ huy quân đi nhanh từ Huế đến Nghệ An vượt qua 350km đường đèo núi, rồi đến Tam Điệp. Trong chuyến hành trình đó, ông tổ chức diễn tập quân lính và đến ngày thứ ba, quân đội đã đến Thăng Long. Điều đặc biệt là tất cả quân lính đi bộ. Dù gặp nhiều khó khăn nhưng đội quân vẫn gọn gàng, giao thông và trật tự, là minh chứng cho tài năng chỉ huy của ông. Khi đến Thăng Long, quân đội đã đánh bại quân Thanh trước thời hạn hai ngày. Ông tự mình dẫn đầu và đã thành công như kỳ vọng. Đồn Hà Hồi đầu hàng, Ngọc Hồi bị tiêu diệt, Sầm Nghi Đống phải tự sát, hàng vạn quân Thanh đã bị tiêu diệt. Tôn Sĩ Nghị 'sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên... cứ nhắm hướng bắc mà chạy'. Đó là hình ảnh hỗn loạn của kẻ xâm lược, phản bội dân tộc khác.
Các tên phản quốc cũng phải trả giá đắt, khi chúng bỏ chạy, chúng trở thành bọn cướp, cướp thuyền của dân để lánh nạn sang phía Bắc.
Hồi mười bốn là bức tranh toàn diện nhất của cuộc chiến, thể hiện một chiến thắng vĩ đại của dân tộc và cảnh báo đến kẻ xâm lược, những kẻ bán nước sẽ phải trả giá cho những tội ác mà họ đã gây ra. Nhờ tài nghệ kể chuyện, nhà văn họ Ngô đã miêu tả chân thực từng nhân vật và sự kiện hấp dẫn. 'Hoàng Lê nhất thống chí' xứng đáng là một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc, luôn là nguồn cảm hứng 'thực và hay' cho đời sau.
...