“Tràng giang” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất và tiêu biểu nhất cho phong cách thơ của Huy Cận trước thời kỳ cách mạng Tháng Tám. Bài thơ được sáng tác vào mùa thu năm 1939, được in trong tập Lửa Thiêng. Cảm xúc thơ được kích thích chủ yếu từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước… Với kỹ thuật nghệ thuật đặc biệt, tác giả đã tạo ra một bức tranh thơ mang vẻ đẹp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đồng thời thể hiện cái tôi cô đơn, cái tình đời, lòng yêu nước sâu sắc nhưng kín đáo.
Tên của bài thơ “Tràng giang” xuất phát từ ngôn ngữ Hán-Việt. “Tràng” có nghĩa là dài, “giang” là sông, khi kết hợp lại “Tràng giang” mang nghĩa là “Sông dài”. Nhưng vì sao nhà thơ không đặt tên bài thơ là “Sông dài” mà lại chọn “Tràng giang”. Vì “Tràng giang” mang một màu sắc cổ kính, trang nhã, với vần từ “ang” tạo ra cảm giác mênh mang, bát ngát của sóng nước, đồng thời cũng là biểu hiện cho tâm trạng mênh mang, không rõ ràng của nhà thơ. Hai từ “Tràng Giang” như đưa chúng ta vào một không gian buồn bã, mang màu sắc cổ điển. “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” không chỉ là một cảnh vật mà còn là tình cảm. Cảnh vật “trời rộng sông dài” cũng là tình cảm của con người “bâng khuâng”. Bên cạnh đó, cụm từ tiêu đề cũng gợi ra một bản nhạc chủ âm cho bài thơ. Nét đẹp cổ điển của Tràng giang hiện lên qua những hình ảnh tự nhiên hung vĩ nhưng lại mang nỗi buồn da diết: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”. Một hình ảnh đẹp của sóng gợn nhưng từ ngữ “buồn điệp điệp” ở cuối câu thơ đã tạo ra cảm giác buồn thấm đẫm. Hình ảnh: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” vẽ lên vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ, hung vĩ, nhưng cũng không làm trôi đi nỗi buồn. Câu thơ cuối bài: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” được lấy cảm hứng từ hai câu thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu thời Đường, được nhà thơ Tản Đà dịch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn – Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Qua đó thể hiện nỗi buồn xa quê, nỗi buồn đau lòng và khao khát, ý thơ trở nên sâu sắc hơn, tình thơ cũng trở nên lặng lẽ.
Bên cạnh nét đẹp cổ điển, vẻ đẹp hiện đại trong Tràng giang cũng được nhà thơ thể hiện rất đặc biệt với kỹ thuật nghệ thuật tinh tế. Những hình ảnh thơ rất bình dị, rất gần gũi với đời sống hàng ngày dường như không mang ý nghĩa lớn nhưng lại chứa đựng ý nghĩa sâu xa: “Con thuyền đi dọc theo dòng nước” đã làm nổi bật sự lẻ loi, sự xa cách, là sự gánh chịu về những kiếp người lênh đênh, bơ vơ: “Một khúc củi khô nằm trôi theo dòng”. Hình ảnh thơ: “Bến nhỏ nghỉ ngơi – Tiếng làng xa xa – nắng rơi trên cao – Sông dài, trời mênh mông, bến đợi lạc lõng”, là không gian được mở rộng và đẩy cao, cảnh vật càng trở nên vắng lặng, nhà thơ lắng nghe tiếng thở dài của cuộc sống nhưng chỉ cảm nhận được đây chính là âm thanh u sầu của cõi lòng. Tác giả khẳng định sự tồn tại của con người nhưng chỉ để phủ nhận nó, chỉ còn lại là thiên nhiên đẹp, cô đơn. Hình ảnh: “Cỏ rơi về đâu – Vô định không có mục tiêu nào xác định” đã thể hiện sâu sắc nỗi đau về sự lênh đênh, lạc lõng. “Chim cong cánh nhỏ: bóng chiều rơi” là biểu tượng cho cái tôi nhỏ bé, cô đơn trước cuộc sống khó khăn, không có niềm vui. Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ qua những hình ảnh vẫn chưa rõ ý nghĩa đã tạo cho “Tràng Giang” một đặc tính không bao giờ mờ nhạt trong bức tranh thiên nhiên u ám, ảm đạm, đẹp nhưng buồn thiu.
Sự kết hợp giữa hai vẻ đẹp cổ điển và hiện đại đã tạo ra một “Tràng Giang” tuyệt vời, rộng lớn, mênh mang và hùng vĩ. Nhờ đó, Huy Cận đã thể hiện rõ nỗi buồn của một cá nhân cô đơn đối diện với thiên nhiên hoang sơ, nhưng cũng chứa đựng sự ấm áp của tình người và tình yêu quê hương sâu thẳm, đầy cảm xúc.