Đề bài
Phân tích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Lời giải chi tiết
Nếu Văn Cao được nhớ đến với dòng sông Lô kiêu hùng; nếu Hoàng Cầm gợi lên kỷ niệm với “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ với những đêm thao thức chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cùng sông Hương đi vào trái tim người đọc với tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”…
Có một truyền thuyết nức danh từ làng Thành Trung, một làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu thương con sông tươi đẹp ấy, những người dân hai bên bờ sông Hương đã kết tinh nước của trăm loài hoa để lan tỏa xuống dòng sông, để làn nước kia mãi mãi thơm phức. Liệu rằng đó có phải là lời giải cho tên gọi Hương Giang – dòng sông gắn bó với Huế, gắn bó với tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường?
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết vào năm 1981, khi tác giả đã sống gần bên bờ sông Hương, sống trong lòng Huế hơn 40 năm, tình yêu đối với quê hương ngày một lớn mạnh, hiện hữu ở mọi thời kỳ, mọi không gian. Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa, nơi có những loài hoa nở rộ, trái cây chín mọng, yên bình và thanh tao – khu vườn nằm trên mảnh đất mà Nguyễn Du từng sống nên bản sắc của “đất Kinh-xưa” đã in hằn trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi lên tác giả hình ảnh của cặp đôi tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.
Chưa bao giờ tôi thấy một dòng sông nào dịu dàng như thế, sông Hương qua mắt Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hóa thành hình ảnh một cô gái duyên dáng đến với tình yêu. Hãy chiêm ngưỡng nàng trước khi bước vào Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “có bản lĩnh và gan dạ” mang trong mình một tâm hồn “ tự do và trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” vang lên hùng mạnh và mãnh liệt nhưng cũng thỉnh thoảng “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã kiềm chế sức mạnh bản năng của mình để khi rời khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và thông thái.
Để đến với Huế, sông Hương đã phải trải qua một cuộc hành trình, phải thay đổi liên tục, như một cuộc tìm kiếm và hiện thực, với vô số địa danh mà dòng nước ấy đã đi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… cô gái Di-gan ấy đã một cách ngoạn mục uốn cong mình nhưng vẫn tiếp tục đi trong bản vẻ uy nghiêm của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để làm cho nước trở nên màu xanh thẳm, nàng vẫn mang vẻ buồn thê lương như triết lý, như thi ca… cho đến khi nghe tiếng chuông của Thiên Mụ, nghe âm thanh phát ra từ những con gà, từ đó sông Hương lung linh như nắng sớm mới, nàng cong cánh cung một cách mềm mại, đến khi đối diện với thành phố, đường cong ấy khiến nàng “mềm mại đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”- Phút ban đầu của việc gặp “người yêu” của sông Hương đấy! Nàng đã tự làm mới mình để tặng cho người yêu những điều tốt nhất.
Sông Hương – dòng sông chỉ thuộc về một thành phố duy nhất – đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris, sông Duna của Budapest…” chảy trong lòng thành phố mà nàng yêu quý nhưng khác biệt ở chỗ nàng đẹp một cách quyến rũ như đang che khuất khuôn mặt tuyệt mỹ bằng màn sương khói, nàng trôi nhẹ nhàng với hàng nghìn ánh hoa đăng trong lễ hội trung thu bồng bềnh trên mặt nước như mang theo một bí mật.
Tôi bỗng nhớ đến một câu nói “có những dòng tình yêu, rất sâu nên rất lặng lẽ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương chính là tình yêu thâm sâu mà nàng dành cho thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương cũng là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của những người tài nữ đánh đàn vào đêm khuya, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên dòng sông này và hơn thế nữa khắp lưu vực sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tình yêu, thấm đẫm lời thề của sông Hương trước giây phút chia ly với Huế trước khi chảy ra biển cả.
Nhưng liệu có lúc nào sông Hương cũng là một cô gái dịu dàng, nhẹ nhàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu dũng cảm để bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang lấp lánh trên kinh thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian vang vọng”, của lịch sử viết giữa màu xanh cỏ, lá biếc…
Sông Hương được nhìn như một cô gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang dã, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy sinh…
Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế – người đàn ông lý tưởng của nàng- cũng đã thay đổi nhiều. Từ bãi hoang với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay lễ phúc âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã biến thành vẻ đẹp cổ kính mà lãng mạn, khiến cho người con của Huế dù ở Paris, Budapest hay Saint Petersburg vẫn khao khát về một thành phố với hình dáng ban đầu, với đô thị cổ, ven hai bên sông.
Huế lung linh hơn với sông Hương mang trong lòng những nét đặc trưng của hội Hoa đăng, của nhạc Huế, hơi ấm của những thuyền buồm đêm muộn. Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của dải đất Hùng Vương, Huế chiến đấu dũng cảm để bảo vệ biên giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của vị anh hùng Nguyễn Huệ, Huế và sông Hương tham gia vào Cách mạng tháng Tám với những chiến công đầy uy nghiêm. Huế đã hiến dâng cho Tổ quốc trong cuộc chiến tranh đẫm máu bên cạnh sông Hương – dòng sông của sử thi đã hy sinh cuộc đời mình như một trận chiến.
Tình yêu của sông Hương và Huế – một tình yêu lãng mạn và sức sống mãnh liệt, một tình yêu như một cuộc hành trình và cuộc bắt tròn, hào hoảng và đam mê, sự hoà hợp tuyệt vời giữa thơ ca và âm nhạc. Tình yêu ấy được nuôi dưỡng bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con yêu quý của Huế, yêu Huế, yêu sông Hương, quan sát sông Hương khi gần để phát hiện ra dòng sông đang thay đổi không ngừng dưới ánh nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn, khi xa xôi đến gần nửa vòng trái đất, quan sát Sông Hương để tìm về trong nỗi nhớ.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ thể hiện vẻ đẹp tự nhiên mà còn phản ánh vẻ đẹp của con người, của những tài nữ đánh đàn, của người dân Châu Hóa lái thuyền trên dòng sông, của những người anh hùng đã hy sinh, của Nguyễn Du, của bà huyện Thanh Quan, của Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy long lanh in bóng mây trời.
Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng là một quá trình hiến tặng, khám phá và hoàn thiện bản thân. Tuy nhiên, vì sông Hương là biểu tượng của truyền thuyết nên câu hỏi mơ hồ của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” vẫn là một câu hỏi không có lời giải đáp, câu hỏi đã trở thành tên của một tác phẩm văn chương tuyệt vời…