Với “Sa hành đoản ca” (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) – một thi phẩm nổi bật, trong chương trình Ngữ văn lớp 11, Cao Bá Quát thực sự đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả với những cảm xúc khó phai về một Người và cũng là một tầng lớp Người: Học giả đạo sĩ! Những nhà quý tộc – nghệ sĩ yêu thích và tôn trọng vẻ đẹp:
Nhất sinh đê thủ bái mai hoa
(Một đời (ta) chỉ biết cúi đầu trước hoa mai!)
Mở đầu của tác phẩm Sa hành đoản ca:
Trường sa phục trường sa,
Nhất bộ nhất hồi khước.
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi)
Những câu thơ mở đầu của “Sa hành đoản ca” tiết lộ một bức tranh, một tình hình và cũng là sự phản ánh đầy cảm xúc, bức xúc của nhân vật trữ tình (Khách tử).
Thời gian và không gian từ những câu thơ trên như một lời đe dọa, một cảm giác đẩy lữ khách vào hoàn cảnh bi thương: Ngày đã sắp tàn (thời gian) mà không gian vẫn mở ra rộng lớn, bao phủ bởi bãi cát trắng (trường sa phục trường sa). Thực tế “bãi cát dài” đó tạo ra cảm giác rùng mình thực sự – “Đi một bước như lùi một bước”. Hình ảnh “bãi cát dài” có thể làm nảy sinh cảm xúc từ hiện thực khách quan, “được tạo ra trong những chuyến đi thi Hội của Cao Bá Quát, đi qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình, Quảng Trị” (Sách Ngữ văn lớp 11 – tập I, trang 40).
Tuy nhiên, hình ảnh “Trường sa phục trường sa” trong thơ Cao, thật sự làm nổi lên như một nỗi ám ảnh tâm trí. Vì thế, sự phản ánh của nhân vật trữ tình rất chân thực và đầy xúc động: “Khách tử lệ giao lạc” (Lữ khách trên đường nước mắt rơi).
Từ hình ảnh về con người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát – cuộc đời (tất nhiên hình ảnh “trường sa” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ – tượng trưng), bài thơ của Cao Bá Quát lại mở ra một cấp độ nữa của cảm xúc và suy tư.
Cao Bá Quát đã mượn và tựa vào tích xưa – “Ông tiên ngủ kĩ” để gửi gắm sự sáng tạo riêng của mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời và con người:
Quân bất học tiên gia mĩ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng!
(Anh không học được tiên ông có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán!)
Về hình thức và giọng điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời “tiên trách kỉ”, “tự trách kỉ”. Đọc và ngẫm kĩ, lại hoá ra lời phản ứng quyết liệt của kẻ sĩ – thi nhân giàu bản lĩnh và cá tính. Làm sao có thể học “ông tiên ngủ kĩ ” để mà làm ngơ, để mà nhắm mắt, để mà “mũ ni che tai” trước bao cảnh ngổn ngang, chất chồng như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời – nhân thế. Cao Bá Quát lên tiếng chối bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi chuyển tiếp sang một góc nhìn hiện thực – hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về người:
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức tranh cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh: Phần đông con người – tầm thường mang bản chất tham lam, vị kỉ và bon chen. Thế nên, tự cổ chí kim (cổ lai), bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi:
Xưa nay phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Cũng chính vì ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị dẫn dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ “mĩ tửu” dậy hương đưa từ đời, từ tửu điếm nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người.
Những câu thơ của thi sĩ họ Cao như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại cũng vừa thầm lặng kiêu hãnh; nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người không muốn và không thể tan hoà trong đám chúng sinh bon chen cầu danh lợi. Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ những “danh lợi nhân”, Cao tiên sinh đã tạo nên thế tương phản, đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ con người – bản thể của mình.
Cao Bá Quát cũng đồng thời nói lên một sự thực mang tính quy luật: người tỉnh trên cõi thế, giữa thời loạn luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn. Cô đơn nên mới một mình vất vưởng trên sa mạc mà cũng là hoang mạc – thời đại. người nghệ sĩ – kẻ sĩ chân chính cũng phải biết chấp nhận cô đơn, đau buồn mới tạo cho mình một tư thế khả dĩ đối mặt với đời.
Tứ thơ của “Sa hành đoản ca” – trong những câu thơ cuối đang thực sự vận động với nội lực đầy day dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão tố của lòng người:
Trường sa trường sa nại cừ hà?
(Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một câu hỏi – tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt: Đường thật nhiều ám ảnh, ghê sợ mà “bước đường bằng phẳng thì mờ mịt”!
“Sa hành đoản ca” của Cao Bá Quát, chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát khởi phát từ lòng người, thật lạ:
Hãy lắng nghe tiếng ca điểm hẹn cuối cùng của ta
(Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”)
Điều độc đáo và ấn tượng trong những từ của Cao Bá Quát là ở chỗ: Tác giả chọn từ “ca” (hát) thay vì từ “thuyết” (nói). Do đó, không thể: “Hãy lắng nghe ta nói lời đường cùng” (hãy nghe ta nói lời khúc cuối).
Không gian u ám, u uất trong lòng, làm sao có thể giải toả bằng lời nói thông thường? Phải hát ca, hát vang – những lời ca nảy lửa, nảy sóng từ trái tim đang tràn đầy nỗi đau và kiêu hãnh. Khúc ca bi thảm của Cao Bá Quát đã đạt đến đỉnh cao của cảm xúc. Trước cảnh tượng quyết liệt của núi, của sóng, của cát… phải tìm kiếm sự giải thoát cho số phận:
Bắc sơn núi Bắc muôn vạn đỉnh,
Nam sơn núi Nam sóng muôn trùng.
(Bắc núi núi Bắc cao vô số đỉnh,
Nam núi sóng Nam dạt vô vàn đợt)
Nhà thơ họ Cao đột nhiên kết thúc “Sa hành đoản ca” bằng một câu thơ đặc biệt. Và, vì đặc biệt mà mở rộng, mở rộng tâm trạng và tư duy cho toàn bộ bài thơ; bốn dòng thơ cũng đột ngột thể hiện nhiều tầng ý nghĩa hơn từ câu hỏi nghi ngờ.
Anh đứng đó làm gì trên bãi cát?
(Anh còn đứng làm chi trên bãi cát)
Bài thơ kết thúc bằng một câu hỏi, với biết bao nghi ngờ và u uất. Nhưng, từ câu hỏi đó, cũng đánh thức sự đột phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Đối với Cao Bá Quát, con đường giải thoát cho số phận của mình là tham gia vào cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ nỗi buồn đau, sự bế tắc và cô đơn trước bãi cát u ám của cuộc đời – nhà thơ Cao tìm đến lòng kiêu hãnh giữa thiên nhiên phong phú như ông tâm sự trong một bài thơ chữ Hán khác – “Quá Dục Thuý Sơn”
Trên đời có núi kia
Muôn thuở có chùa này
Phong cảnh kì tuyệt vời
Lại thêm ta đến đây
(Thiên địa có núi đó
Mọi thời có chùa này
Phong cảnh tuyệt vời đã có
Và ta cũng đến đây)