Những con đường dài rộng vẫy gọi, người ra đi không quay lại. Phía sau bức màn nắng, lá đổ rơi đầy, mùa thu đã thay đổi. Tôi đứng giữa trời đất hân hoan, gió rít trong rừng tre, trời thu mặc áo mới. Màu xanh biếc, nụ cười tự nhiên, rừng xanh này thuộc về chúng ta, núi rừng này thuộc về chúng ta. Những cánh đồng mùi cỏ biếc, những con đường mở rộng, những con sông đỏ màu phù sa. Đây là đất nước của chúng ta, của những người không bao giờ đầu hàng. Đêm đêm, tiếng đất reo vang, những kỷ niệm xưa vẫn còn vương vấn. Ôi những cánh đồng chảy máu, dây thép gai đâm vào bờ chiều. Những đêm dài dằn vặt, nhớ thương người yêu. Từ những năm tháng đau khổ chiến đấu, vẻ đẹp của quê hương đã hiện lên, từ gốc mía bờ tre đến tinh thần hiền lành. Tiếng gầm gừ của sự phẫn nộ, bát cơm ướt nhẹn nước mắt, tên giặc thù, tên chúa đất, họ chết chưa kịp đề phòng. Trời đầy mây mù và đất đầy hoa, khẩu súng của chúng không bao giờ bắn được. Lòng dân yêu nước, yêu nhà, khói máy nhà máy cuộn trên núi sương, tiếng kèn gọi lính vọng về trên cánh đồng. Nắm chặt quê hương trong tay, họ đã trở thành anh hùng, ngày nắng cháy và đêm mưa dầm, mỗi bước chân là một bước hi sinh, trán cháy bỏng, tưởng tượng về một trời đất mới. Trái tim đang hướng về bình minh rạng rỡ, tiếng súng nổ, lòng người dậy sóng, máu Việt Nam như lửa, đất nước đứng dậy, tỏa sáng
Viết chi tiết giải pháp khác của bạn
Phân tích đề:
- Chủ đề: Sự cảm hứng về quê hương trong tác phẩm thơ 'Đất nước' của Nguyễn Đình Thi.
- Thể loại: Phân tích một tác phẩm thơ trữ tình theo định hướng đã được xác định. Trong việc phân tích, cần hiểu rõ đặc điểm của thể loại này, tập trung vào việc làm nổi bật cảm xúc, tình cảm, và tư tưởng của tác giả.
- Phạm vi: Mặc dù chỉ yêu cầu phân tích bài thơ của Nguyễn Đình Thi, nhưng cũng cần so sánh và liên kết với các bài thơ khác, đặc biệt là những bài thơ có cùng đề tài về quê hương trước và sau bài thơ này (ví dụ: 'Bên kia sông Đuống' của Hoàng Cầm, 'Đất nước' của Nguyễn Khoa Điềm…) để nhận thức được vẻ đẹp độc đáo của tác phẩm.
Gợi ý cho việc phân tích:
1. Hiểu rõ bối cảnh sáng tác của bài thơ để có cái nhìn tổng quan cho việc phân tích.
- 'Đất nước' là một bài thơ ngắn (49 dòng) nhưng lại được viết trong khoảng thời gian kéo dài từ năm 1948 đến năm 1955.
- Bài thơ có nguồn gốc từ hai tác phẩm trước đó của Nguyễn Đình Thi là 'Sáng mát trong như sáng năm xưa' (được đăng trên báo Văn nghệ số 6, tháng 10 và 11 năm 1948) và 'Đêm mít tinh' (trong tạp chí Văn nghệ Xuân 1949). Cả hai bài thơ này được viết tại Việt Bắc, trong tâm trạng nhớ về Hà Nội của tác giả.
- Phần đầu của bài thơ, từ 'Sáng mát trong...' đến 'Trong biếc nói cười thiết tha', được lấy từ bài thơ đầu tiên. Sau đó, từ đoạn cuối của bài thơ thứ hai cho đến 'Những buổi ngày xưa vọng nói về', đoạn từ 'Ôi cánh đồng quê...' đến hết bài được Nguyễn Đình Thi viết vào năm 1955.
Do đó, bài thơ được hình thành từ ba phần khác nhau, trong một khoảng thời gian dài, nhưng vẫn có tính liên tục, nhất quán nhờ vào sự kết nối bởi cảm xúc mạnh mẽ về đất nước.
2. Lưu ý về cấu trúc
'Đất nước' là một bài thơ mang kết cấu độc đáo
- Nhà thơ đưa người đọc vào thế giới cảm xúc của mình theo lối hứng của ca dao, dân ca. Bắt đầu bằng cảm xúc về một sáng mùa thu, mùa thu thiên nhiên, gợi nhớ về mùa thu xa xưa của Hà Nội. Sau đó, từ mùa thu thiên nhiên, đất trời, gợi nhớ về mùa thu của đất nước, mùa thu của cách mạng với niềm tự hào được làm chủ đất nước. Và, từ đó lại suy ngẫm về đất nước trong chiến tranh, giải phóng, về những con người từ trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu - những anh hùng của quần chúng. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh mang tính biểu tượng về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.
- Sự phát triển của tư tưởng - cảm xúc trong bài thơ theo hướng cảm nhận và suy ngẫm của tác giả về đất nước. Vì vậy:
+ Phần sau của bài thơ có nhiều hình ảnh tổng quát, hình ảnh mang tính biểu tượng hoặc hình ảnh hiện thực đã được mở rộng ý nghĩa theo hướng tổng quát.
+ Sự thay đổi của nhịp điệu, âm hưởng theo dòng cảm xúc: Từ nhịp chậm với những âm cao và trong => trầm xuống khi lắng nghe mạch sống bất diệt của đất nước => dồn dập, cuộn sôi, tuôn trào => hào hùng, sáng lên.
3. Các yếu tố chính cần phân tích
- Cảm hứng của bài thơ:
Như đã gợi ý từ tựa đề, cảm hứng của bài thơ tập trung vào sự tôn vinh về quê hương, về đất nước, Tổ quốc. Cảm hứng này hiện diện khắp nơi trong bài thơ, là sợi dây liên kết từng phần riêng biệt, tạo nên một bức tranh thống nhất. Do đó, trong quá trình phân tích, cần luôn tập trung vào chủ đề này.
- Khổ thơ đầu:
Kỷ niệm tươi sáng về mùa thu hiện tại. Đây cũng là cảm hứng về một đất nước đang trải qua quá trình đổi mới, cảm hứng đầy tự hào của những người dân làm chủ. Phát hiện mới của Nguyễn Đình Thi ở đây là mối liên kết giữa truyền thống và hiện đại trong việc tôn vinh đất nước.
- Phần tiếp theo của bài thơ:
Tác giả tập trung vào việc thể hiện những cảm xúc và suy ngẫm về đất nước từ những đau thương trong chiến tranh đã khơi dậy mạnh mẽ, tỏa sáng.
- Nhận định tổng quát:
'Đất nước' là một bài thơ xuất sắc của Nguyễn Đình Thi và của nền thơ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Thành công lớn nhất của tác giả là đã diễn đạt những tình cảm chân thành, xúc động về đất nước của mình.
Tài liệu tham khảo
Tiếng thơ ca tự hào về đất nước
Trong thế giới thơ, thường có những bài thơ được viết nhanh chóng, gần như là 'xuất thần'. Ngược lại, có những bài thơ được nấu nướng cẩn thận, nhưng khi hoàn thành, tác giả vẫn chưa hài lòng, đặc biệt là về cảm xúc và kết cấu. 'Đất nước' của Nguyễn Đình Thi có thể là một trường hợp ngoại lệ. Nó được hình thành từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến đó kết thúc (1955). Điều này chứng tỏ tài năng của nhà thơ. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là tác phẩm này được tạo ra từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một đề tài lớn: Đất nước!
Bài thơ bắt đầu bằng những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi lên kí ức về Hà Nội:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Đây cũng là một ấn tượng về mùa thu ở Hà Nội: không khí trong lành, gió nhẹ nhàng thổi và phảng phất mùi hương của cốm mới. Câu thơ này mô tả toàn bộ không gian, màu sắc và hương vị, 'đồng hiện' cả thời gian và không gian hiện tại và quá khứ, xen lẫn hình ảnh trong thực tế và hình ảnh trong ký ức.
Hương vị của cốm mới là nét đặc trưng của mùa thu ở Hà Nội. Có vẻ như đó là sự kết tinh của tất cả hương vị của đất trời, của cây cỏ trong mùa thu Hà Nội. Thạch Lam đã viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu ở Hà Nội:
Hương thơm của đồng cỏ hòa quyện… là điệu nhạc của cánh đồng bát ngát màu xanh, mang trong mình hương vị đậm đà của cuộc sống giản dị và thanh khiết của làng quê Việt Nam.
(Hà Nội năm sáu phố phường)
Về sau, hương cốm cũng trở thành một phần của âm nhạc Trịnh Công Sơn (Nhớ mùa thu Hà Nội) cùng với hình ảnh cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ… tạo nên bức tranh tĩnh lặng, gợi nhớ về mùa thu ở thủ đô Hà Nội:
Mùa thu Hà Nội / Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / gần nhau / phố cổ nhà xưa / mái ngói màu nâu / … Mùa thu Hà Nội / mùa thu ở Hà Nội / mùa hoa sữa về / hương từng hơi gió / mùa cốm xanh về / hương của đôi bàn tay nhỏ / cốm bày bán ven đường / hương thoang thoảng qua…
Nguyễn Đình Thi đã thể hiện những đặc điểm nổi bật nhất của mùa thu Hà Nội trong thơ của mình. Điều này chứng tỏ nhà thơ đã có mối liên kết sâu sắc và yêu thương với Hà Nội, một tình cảm đậm đà dù ở xa vẫn luôn cháy bỏng. Nguyễn Đình Thi kể lại, khi còn nhỏ đi học trung học, ông thường lên khu Hồ Tây ngắm nhìn bầu trời và những chiếc máy bay. Cảm hứng từ bầu trời thu, từ làn gió mát, từ hương vị của cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng trong đoạn thơ sau của ông 'cũng chính là cảm hứng về đất nước' (Nguyễn Đình Thi - Bài thơ Đất nước)
Câu thứ ba: Tôi nhớ những ngày thu đã qua là một sự chuyển đổi. Thực tế, trong hai câu thơ đầu tiên đã có hình ảnh của mùa thu ngày xưa, nhưng ở đây có vẻ như dòng ký ức không thể kìm nén nên lời thơ tự nhiên trào ra:
Tôi vẫn nhớ những ngày thu đã qua
Ở đây, còn một lý do khác nữa: Trong bài thơ Sáng mát như sáng năm xưa, câu thơ: Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em, đem lại hình ảnh đẹp mắt. Câu thơ truyền đạt cảm xúc và tình cảm của một người trí thức ở Hà Nội. Thời điểm đó, có thể không phù hợp với suy nghĩ của nhiều người trong thời kỳ kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã sửa lại. Tuy nhiên, việc điều chỉnh này cũng hợp lý, giúp kết nối hình ảnh trong toàn bộ bài thơ.
Bốn dòng thơ tiếp theo mô tả về mùa thu Hà Nội xưa:
Sáng chớm se lạnh trong lòng Hà Nội
Những con đường dài sương khói mờ mịt
Người ra đi không quay đầu lại
Sau lưng bước thềm nắng lá rụng ươm
Mùa thu Hà Nội hiện lên trong ký ức của nhà thơ với vẻ đẹp và sự lãng mạn, về thời tiết, thiên nhiên, và không gian (sáng chớm se lạnh, sương khói mờ mịt, con đường dài). Sự nhận thức của tác giả rất nhạy bén và tài năng, biến mùa thu Hà Nội thành những khối hình, màu sắc và ánh sáng. Đó là hình ảnh, màu sắc và ánh sáng của tâm trạng, khiến lòng người thêm xúc động.
Mùa thu Hà Nội trong ký ức của Nguyễn Đình Thi mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh mùa thu thường đem lại trong lòng người những cảm xúc buồn vui xen kẽ, êm đềm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, đất trời và ánh sáng. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là việc nhà thơ nắm bắt được những khoảnh khắc kỳ diệu ấy của mùa thu. Ở quê hương, Nguyễn Đình Thi không chỉ hiểu được bản sắc của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu đó từ lâu đã nằm trong tâm hồn của nhà thơ.
Thơ cổ thường miêu tả mùa thu kết hợp với sự chia xa, những cuộc tiễn đưa. Thơ mùa thu của Nguyễn Đình Thi cũng vô tình gợi lên hình ảnh của sự ra đi, tạo ra một bức tranh mùa thu đầy xúc động:
Người ra đi đầu không quay lại
Phía sau thềm nắng lá rơi đầy
Hiện nay, đã có nhiều quan điểm khác nhau về người trong câu thơ trên 'Người ra đi'. Một số người cho rằng đó là người Hà Nội đang cảm thấy rời bỏ thủ đô trong bối cảnh kháng chiến. Một số khác nghĩ rằng, đó là hình ảnh của lính Trung đoàn Thủ Đô khi rút lui khỏi Hà Nội... Thực ra, Trung đoàn Thủ Đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và sự rút lui diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Nếu coi người Hà Nội rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ là không chính xác, vì kháng chiến diễn ra trên toàn quốc từ tháng 12 năm 1946. Dựa vào cảm xúc và hình ảnh thơ, có thể khẳng định người ra đi trong bài thơ là trước năm 1945. Người đó đã đưa ra quyết định một cách dứt khoát (đầu không quay lại), nhưng trong lòng vẫn có nhiều nỗi niềm, âu lo, vì vậy âm điệu thơ mang nhiều nét bí ẩn và hình ảnh ra đi, mặc dù đẹp nhưng đầy buồn và yên lặng: Hình ảnh này gần giống với người ra đi trong 'Tống biệt hành' của Thâm Tâm:
Dẫn người, chỉ dẫn người ấy
Một cuộc chia tay, một lẽ buồn...
-Lối đi! Lối đi! Đường nhỏ này
Chân lớn không quay lại tay không
(Tống biệt hành)
Nguyễn Đình Thi đã tiết lộ rằng: Người ra đi trong bài thơ này không nhất thiết là tác giả hoặc một cá nhân cụ thể - người ra đi có thể là những người tham gia cách mạng, hoặc vì một lý do khác, một bi kịch chung hoặc riêng... Dù thế nào đi nữa, đó vẫn là một người rời bỏ nơi quen thuộc, để lại phía sau mọi thứ, và cảnh đẹp nhưng cô đơn, lặng lẽ. Người ra đi có một cảm giác nào đó mà chúng ta không biết rõ, nhưng anh ta không quay đầu lại, anh ta cảm thấy cần phải ra đi, và những gì anh ta để lại phía sau, có vẻ như không còn thuộc về anh ta nữa (Thư trả lời đọc giả, ngày 14.12.1983)
Dù thế nào đi nữa, những dòng thơ trên vẫn là những dòng thơ đẹp nhất trong bài thơ 'Đất Nước'. Một số người cho rằng đó là “những dòng thơ đầy sáng tạo về hình thức và cảm xúc so với thời đại, và ngay cả hiện nay, nó vẫn giữ nguyên giá trị thơ, như những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11.8.1991)
Từ kỷ niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả chuyển đến cảm xúc về mùa thu của đất nước, trong bối cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:
Mùa thu nay đã khác rồi
Tôi đứng đây vui vẻ giữa dòng đồi
Gió thổi rừng tre xôn xao
Bầu trời thu đã thay áo mới
Trong không khí vui tươi
Bài thơ trải qua sự biến đổi về âm điệu, nhịp điệu: các dòng thơ ngắn với nhịp điệu nhanh, rộn ràng; âm thanh kết hợp với vần trắc và thanh trắc (xôn xao, áo mới). Cảnh thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời xanh biếc, nhưng sáng sủa, năng động, gió thổi, rừng tre xôn xao, bầu trời thu đã thay áo mới, trong không khí vui tươi. Tất cả những thay đổi đó hòa nhập với tâm trạng của con người (đứng đây vui vẻ), thể hiện niềm vui phấn chấn, sự tin tưởng, một vẻ đẹp sức khỏe và sự sáng sủa.
Sự tinh tế trong việc cảm nhận của nhà thơ được thể hiện qua những đặc điểm độc đáo của mùa thu mới: tiếng vọng xa, ánh nắng rạng ngời hơn và bầu trời mênh mông hơn. Từ cảm xúc về mùa thu của đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự tỏa sáng của tình yêu và lòng tự hào:
Trời xanh nơi này là của chúng ta
Núi rừng ở đây là của chúng ta
Những cánh đồng mát mẻ
Những con đường bát ngát
Những con sông đỏ nặng phù sa
Nước của chúng ta
Đất của những người không bao giờ quên
Mỗi đêm rì rầm trong tiếng đất
Mỗi buổi sáng vang lên bình minh của
Những từ chỉ định (nơi này) và đại từ nhân xưng (của chúng ta) phát ra âm thanh mạnh mẽ, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả việc liệt kê (một cách tổng quát, bằng danh từ và tính từ) tiếp tục tăng thêm sự tự hào này. Đặc biệt là hình ảnh của bầu trời mà Nguyễn Đình Thi chú trọng: Trời xanh ở đây là của chúng ta. Hình ảnh này không chỉ chân thực mà còn có ý nghĩa biểu tượng cho đất nước, tự do và những giá trị cao quý nhất của con người. Hãy nhớ, trước năm 1945, Nguyễn Đình Thi đã viết:
Trời xanh ơi, trời xanh im lặng
Không biết hồn tam muốn hiểu gì
Khi ấy, “trời xanh” là một hình ảnh đẹp, nhưng xa xôi và khó hiểu cho tâm hồn con người.
Trên bức tranh không gian mênh mông, được miêu tả đa chiều, Nguyễn Đình Thi đưa ra khía cạnh thời gian, nét đặc trưng và tinh thần sâu sắc của đất nước và con người Việt Nam.
Nước ta
Nơi những người không bao giờ chịu khuất phục
Thật ra, quá khứ và truyền thống của dân tộc không chỉ đơn giản như vậy. Nhưng có lẽ, trong bối cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân vào thời điểm đó, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống chống ngoại xâm mạnh mẽ hàng nghìn năm. Câu thơ có tính tổng quát cao, nhưng mở ra về những tầng lớp, những thế hệ đã hy sinh anh dũng, sẵn sàng hy sinh tất cả cho đất nước.
Tất nhiên, bên cạnh nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc tạo ra tiếng nói kiên định, liên tục, động viên cho hiện tại:
Mỗi đêm vang lên tiếng đất rầm rộ
Những ngày xưa vẫn còn lặng lẽ nói về
Tiếng lời ấy trở thành linh hồn của núi sông, truyền động lực, gợi nhớ cho thế hệ sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm nhận thức được mối liên kết giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ tiếp tục khám phá các khía cạnh độc đáo về mối liên kết đó. Như từ Huy Cận:
Cha ông yêu thương thời xưa cũ
Trần trụi đau đớn bỗng gần gũi
Những bước mất mát trong dấu vết gỗ
Về đây, tươi cười giữa ngàn dặm mùa xuân
(Các vị La Hán tại chùa Tây Phương)
và từ Chế Lan Viên (Người tìm kiếm hình ảnh của tổ quốc, Tổ quốc thật đẹp như thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn... đến Nguyễn Khoa Điềm trong những năm chiến tranh chống Mỹ:
Ngày mai con cháu lớn lên
Con sẽ dẫn tổ quốc đi xa xôi
Đến với những ngày mơ mộng
Em ơi, tổ quốc là máu xương của chúng ta
Phải biết gắn bó và chia sẻ
Phải hiện hình cho hình ảnh của đất nước
Tạo nên đất nước bất diệt...
(Địa cầu khao khát)
Phần thứ hai của bài thơ tập trung vào một ý chính: đất nước từ trong đau thương và căm hờn nổi lên với ánh sáng.
Bắt đầu bằng một hình ảnh về đất nước trong thời kỳ chiến tranh:
Ôi những cánh đồng quê đang chảy máu
Các sợi thép gai đâm vào bầu trời chiều
Những dòng thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc với hình ảnh đập vào cảm xúc. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng kỹ thuật ngược sáng của điện ảnh, trong ánh chiều tà, các sợi thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn Đình Thi đã thổ lộ, trong những chuyến công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp lặn, nhìn về phía chân trời xa xôi thấy đồn giặc với các lô cốt, các hàng dây thép gai đan xen đầy đủ làm cho chân trời bị xé nát, nham hiểm – gây ra một cảm xúc bất bình. Nhớ rằng, đó là một buổi chiều thu, thường được coi là đẹp và lãng mạn. Hình ảnh này thể hiện cái nhìn nhạy cảm và tình cảm chân thực của người viết: chiến tranh phá hủy tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự hủy hoại, với tội ác. Không ít nhà thơ đồng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có cái nhìn nhạy cảm và đau xót như vậy:
Đâu làng quê ta đi qua
Máu tươi ướt giày chân địch
Đất đỏ, đá vụn, ngõ nhỏ ai
Chiếc bếp đang hừng hực lửa
(Quang Dũng- Những làng đi qua, 1947)
Bỗng cuối mùa giặc xâm lược đến
Ngõ chùa bốc cháy lửa cao
Mãi chờ đợi, lời hẹn chưa thực hiện
Đến khi bất ngờ tin đau lòng
(Vũ Cao – Núi đôi, 1956)
Trên bức tranh hiện thực ấy là tâm trạng của người lính :
Những đêm dài dài bước quân chân nương náu
Lòng lo sợ nhớ người yêu
được sắp xếp ở cùng một khổ thơ, tạo nên cấu trúc: bề ngoài/bên trong. Hai dòng đầu là cảnh bên ngoài, hai dòng sau là tâm trạng. Trong dòng thơ còn có sự cân đối khác:
có / đột
nuôi ấp / lo lắng
Sự đối xứng này làm nổi bật phẩm chất của người lính : tình yêu thường trực là căm ghét địch, ý chí giải phóng quê hương và tình cảm đột ngột là nỗi nhớ thương người yêu. Xử lý văn bản phản ánh tinh thần của thời kỳ đó : tình cảm chung quan trọng hơn tình cảm riêng, nhưng điều đó không làm mất đi tình cảm riêng.
5 khổ thơ sau tập trung vào suy tư của tác giả về đất nước, từ trong nỗi đau đớn, sự căm hờn nổi lên chiến đấu quả cảm, sẵn sàng hy sinh như những anh hùng của thời đại mới. Các câu thơ phát triển theo hướng suy tưởng nên hình ảnh trừu tượng, tượng trưng, với các biểu tượng quen thuộc như bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa… Nhiều câu thơ nặng ý, mang tính luận lý. Ý thơ dựa trên các loại cảm xúc, tâm trạng, đặt các loại cảm xúc này cạnh nhau để làm rõ chủ đề, Nguyễn Đình Thi không sử dụng các câu nối, thay vào đó là các hình ảnh đứng tự mình. Chúng được kết nối thông qua mạch cảm xúc, suy tư của tác giả.
Điều đáng chú ý ở những khổ thơ cuối cùng của bài Đất nước là những hình ảnh, ý tưởng mới :
Ôm quê hương những người bình dân
Đã trở thành những anh hùng
…
Trán sáng tỏ nghĩa trời đất mới
Lòng chúng ta đầy ắp ánh sáng bình minh
Về mặt nghệ thuật, điều đó phản ánh vào cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ để diễn đạt các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ, tạo nên trọng tâm câu thơ tập trung vào phần vị ngữ :
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
…
Đã tỏa sáng gương mặt quê hương
…
Đã nổi lên tiếng căm hờn
…
Bát cơm đầy nước mắt
Cánh bay còn lúc lắc rời miệng ta
…
Con nhỏ vẫn khóc thét…
Các câu thơ với hình ảnh tương phản (xiềng xích / trời, súng đạn / lòng dân) khi gặp nhau, kết hợp (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa dội…) diễn đạt ý tưởng về quê hương mà nhà thơ đã suy ngẫm trong thời gian dài. Hiện nay, những ý tưởng đó trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng trong thời kỳ Việt Nam Dân chủ cộng hòa mới hình thành, đặc biệt là trong cuộc chiến khốc liệt, đó là trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu và xương của hàng triệu con người.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự nổi dậy hùng mạnh, rực rỡ trong khói lửa của cuộc chiến, từ đau thương và căm hờn của đất nước. Bốn câu thơ cuối với cấu trúc sáu chữ, cách ngắt nhịp đều đặn, tạo ra âm điệu uy nghi, hùng vĩ. Hình ảnh này phản ánh từ thực tế mà tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích rằng những câu thơ này “nhận được âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu kẻ thù… Bài thơ kết thúc với âm điệu của chiến thắng tại Điện Biên Phủ”.
Đất nước là một trong những bài thơ thành công nhất của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về các chủ đề lớn hơn. Đó cũng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm kết hợp nhiều yếu tố: hình ảnh sống động và tư duy sâu xa, trừu tượng, cảm xúc, tư tưởng cá nhân với tình cảm, suy tưởng của toàn dân về quê hương. Có lẽ chính vì điều đó, qua bao năm tháng, Đất nước vẫn là tiếng thơ vẹn nguyên trong lòng người Việt Nam.