1. Tóm tắt nội dung
2. Bài viết mẫu số 1
3. Bài viết mẫu số 2
4. Bài viết mẫu số 3
Bài luận Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du lớp 10
I. Xây dựng kết cấu phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí
1. Giới thiệu
- Giới thiệu tổng quan về nhà văn Nguyễn Du và tác phẩm
+ Nguyễn Du, một tác giả nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam
2. Nội dung chính
a) Giới thiệu về ngữ cảnh sáng tác của bài thơ
b) Tổng quan về hành trình cuộc đời của nàng Tiểu Thanh
c) Phân tích cấu trúc bài thơ theo hình thức thất ngôn bát cú của văn bản Đường luật.
* Đề (2 dòng thơ đầu)
- Mô tả không khí tại khu vườn hoa Tây Hồ, thể hiện tâm lý của nhà thơ khi đối diện với sự đan xen của quá khứ và hiện tại.
+ Quá khứ: Tây Hồ từng là khu vườn hoa thơ mộng, nơi nàng Tiểu Thanh trải qua
+ Hiện tại: Chỉ còn lại là bãi hoang tàn, nơi quá khứ hóa là hư ảo
- Tâm trạng của Nguyễn Du: Buồn bã, thương tiếc, chỉ biết nhớ về nàng qua trang sách đặt trước cửa sổ.
* Thực (đoạn thơ 3 + 4)
- Hai hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng sâu sắc:
+ Son phấn: Mô tả vẻ đẹp của người con gái
+ Văn chương: Tương trung vào tài năng văn chương của nàng Tiểu Thanh
à Tiểu Thanh là người tài sắc vẹn toàn nhưng sống và chết trong cô đơn. Bằng những hình ảnh không hồn, Nguyễn Du đã thể hiện bi kịch của cuộc sống của nàng.
* Luận (đoạn thơ 5 + 6)
- Hai dòng thơ có sự tổng quát cao:
+ Dường như những con người có tài năng luôn phải đối mặt với đau khổ trong cuộc sống
+ Từ cuộc đời của Tiểu Thanh, người đọc tạo liên kết với cuộc đời của Kiều
3. Kết luận
- Bày tỏ cảm nhận của bạn về giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm.
II. Bài viết mẫu phân tích Độc Tiểu Thanh Ký
1. Bài viết Phân tích tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí, mẫu số 1:
Đề tài về người phụ nữ, một chủ đề ít được nhà thơ trung đại khám phá, tuy nhiên, đại thi hào Nguyễn Du đã chọn viết về người phụ nữ với tình cảm trân trọng và sự thấu hiểu. Bài thơ 'Độc Tiểu Thanh kí' là một tác phẩm xuất sắc bằng chữ Hán với đề tài về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, song song với kiệt tác thơ Nôm 'Truyện Kiều'.
Nguyễn Du sáng tác bài thơ khi đang công tác sứ ký sang Trung Quốc. Tên chữ Hán 'Độc Tiểu Thanh kí' mang nhiều ý nghĩa. Một số cho rằng Nguyễn Du đọc tập truyện về cuộc đời nàng Tiểu Thanh, cảm thấy xót thương cho số phận đau đớn của người phụ nữ tài hoa, từ đó viết nên bài thơ này. Khác biệt quan điểm nói rằng Nguyễn Du đã đọc tập thơ của nàng Tiểu Thanh và ngưỡng mộ, xót thương cuộc đời nàng. Dù cách hiểu nào, bài thơ chứng tỏ tấm lòng nhân đạo và tình người của nhà thơ.
Tiểu Thanh, một cô gái thông minh, xinh đẹp, tài năng văn chương, sống vào thời đại Minh ở Trung Quốc, khoảng 300 năm trước Nguyễn Du. Bị gia đình ép buộc kết hôn với một người quyền quý, nàng bị đẩy ra sống đơn lập ở Cô Sơn, gần vườn hoa Tây Hồ. Sống trong cô đơn, Tiểu Thanh chỉ biết thân thương với thơ, đến khi lâm bệnh và qua đời khi mới 18 tuổi. Số tác phẩm văn thơ mà nàng để lại bị đốt cháy, chỉ còn được gọi là 'phần dư' sau này.
Tinh thần chủ đạo của bài thơ là lòng đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với số phận của nàng Tiểu Thanh. Từ tâm đồng cảm đó, ông nhận thức được sự bất công và đau đớn trong cuộc sống, lòng thương người, thương bản thân nhiều hơn. Khi bước vào bài thơ, người đọc ngay lập tức được dẫn dắt đến không gian đẹp đẽ, nơi nàng Tiểu Thanh đã từng sống:
'Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư'
( Tây Hồ cảnh đẹp biến thành đồng cỏ hoang
Thổn thức trước tấm giấy tàn)
Một từ 'tẫn' đã gợi lên sức mạnh, ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí độc giả. Phần dịch thơ không thể truyền đạt đủ ý nghĩa của từ 'tẫn' này. Nó không chỉ là bị hủy hoại, mà còn là sự diệt vong, sự tàn phá, không đơn giản chỉ là 'hóa gò hoang'. Một từ 'tẫn' đưa ra sự tương phản kinh hoàng giữa quá khứ và hiện tại. Tính quý giá của Tây Hồ đã trở thành cảnh đẹp biến thành đồng cỏ hoang, mảnh giấy thơ tàn. Câu thơ làm cho người đọc cảm thấy đau lòng! Đó có thể là cảm giác khi nàng Tiểu Thanh còn sống, nơi đây là một hình ảnh tuyệt vời mê hồn, nhưng giờ đây người đẹp không còn, cảnh đẹp cũng tan biến. Trước cảnh tượng đó, Nguyễn Du bày tỏ niềm tiếc thương, càng thêm đau lòng khi đứng trước cửa sổ với tập sách của nàng. 'Độc điếu' chỉ sự cô độc, lẻ loi của nhà thơ khi vượt qua thời gian và không gian để hồi tưởng về quá khứ và thổn thức trước sự mất mát của nàng Tiểu Thanh. Mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, giữa cuộc sống biến động, tên tuổi của một người con gái tài năng nhưng bất hạnh trong thời kỳ Minh dường như cũng dần bị lãng quên theo năm tháng. Câu thơ như tiếng thở dài đầy chua xót của Nguyễn Du trước số phận đen tối của người con gái.
Đến hai câu thực sự là hình ảnh chứa đựng nhiều ý nghĩa biểu tượng:
'Chi phấn hữu thần liên tử hậu Khi nhắc đến 'son phấn' và 'văn chương', ta liên tưởng ngay đến vẻ đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh. Nhan sắc vô tội nhưng bị ganh ghét, tài năng không có lỗi nhưng lại bị đàn áp không thương tiếc. Hai câu thơ thể hiện lòng thương xót của Nhà thơ đối với tài năng và vẻ đẹp của nàng Tiểu Thanh. Nàng phải ra đi khi còn trẻ, sáng tác của nàng bị hủy hết, chỉ còn lại 'phần dư'. Dù sống 300 năm xa cách, Nguyễn Du vẫn hiểu biết những bất công mà nàng phải trải qua. Câu thơ cũng phản ánh quan niệm 'tài mệnh tương đố' của Nguyễn Du. Trong sáng tác của ông, chúng ta thường gặp những phụ nữ tài năng và xinh đẹp nhưng gặp nhiều biến cố và khó khăn như nàng Đạm Tiên, nàng Kiều. Đó là lý do Nguyễn Du thường lặp lại những câu thơ cao siêu như: 'Đau đớn thay phận đàn bà Hoặc: 'Thương xót cho số phận phụ nữ Bài văn Phân tích Độc Tiểu Thanh kí đầy đủ chi tiết Bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh kí' mang đến một tiếng nói nhân đạo độc đáo, điểm mới mẻ. Điều này rõ ràng trong hai câu 5 và 6 của bài thơ: 'Kí ức đen tối khôn xiết vấn đề trời Nguyễn Du nhìn nhận bản thân như một người đồng hương, cùng lắm sóng gió với những tài năng bạc mệnh, lên tiếng đầy chua xót. Câu hỏi: Vì sao những người tài năng thường gặp nhiều trắc trở, bi kịch? Không có câu trả lời, có lẽ những con người tài hoa mang theo 'án' bạc mệnh? Trong 'Truyện Kiều', ông thốt lên 'Tài tình chi lắm cho trời đất ghen', sau đó là 'Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen'. Nếu ở trong một xã hội khác, những người tài sắc vẹn toàn như Tiểu Thanh có lẽ không phải chịu nhiều bất công, không bị vùi dập như vậy. Câu thơ thể hiện khát khao của Nguyễn Du về những người có tài có tình sẽ được trân trọng. Kết thúc bài thơ là tâm trạng đầy ngậm ngùi, chua xót của Nguyễn Du: 'Bất tri tam bách dư niên hậu Tiểu Thanh đã xa cách cuộc đời được 300 năm, nhưng vẫn có người thấu hiểu và đồng cảm với nàng. Nhà thơ tự đặt ra câu hỏi về tương lai, liệu 300 năm nữa ai có hiểu ông không? Một câu hỏi ám ảnh khiến người đọc nghĩ về số phận của những người tài hoa sau nhiều thế kỉ. Kết thúc bài thơ là mong ước về tri kỷ trong cuộc sống này của đại thi hào. Thực tế, qua ba thế kỉ, chúng ta vẫn nhớ tới tên tuổi Nguyễn Du và những kiệt tác của ông. Điều này chứng minh giá trị vĩ đại và sự trường tồn của những người tài hoa, luôn được xã hội trân trọng và yêu mến. Nguyễn Du, còn được biết đến với tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, và biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (Nhà săn bắn núi Hồng Sơn), sinh năm 1765 tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Sinh ra trong gia đình cụ Hoàng Giáp Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, người từng là thủ tướng của triều đình Lê. Gia đình của Nguyễn Du thuộc dạng gia đình Nho học xuất sắc, nơi mà tất cả thành viên đều làm quan dưới triều đại Lê. Điều này đã làm nổi tiếng gia đình trong ca dao cổ ngôn: Bao giờ cây Hống cạn trĩu, Gia đình Nguyễn Du không chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực học thuật mà còn là một gia đình văn học uyên bác. Cụ Nguyễn Nghiễm đã chia sẻ tâm tư của mình qua bài phú “Khổng Tử mộng Chu Công”. Trong số 5 danh sĩ nổi tiếng của nước ta thời bấy giờ (An Nam ngủ tuyệt), gia đình Nguyễn đã đóng góp 2 tên tuổi xuất sắc (Nguyễn Du và Nguyễn Đạm). Nguyễn Du sinh ra trong gia đình bà Trắc Thất Trần Thị Tần, cư dân của huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh. Bà là người mẹ của bốn đứa con, và Nguyễn Du là đứa con thứ ba. Năm 18, Nguyễn Du thi đỗ kỳ thi Tam Trường (Tú Tài), mở đầu cho hành trình đầy biến động theo quốc số. Năm 1802, với việc vua Gia Long lên ngôi, triệu tập các tài năng nhà Lê để phục vụ triều đình. Nguyễn Du cũng là một trong những người được triệu tập. Không thể từ chối, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Phù Dực, tỉnh Thái Bình, sau đó thăng chức Tri Phủ. Thường Tín cũng là một trong những điểm dừng trong sự nghiệp của ông. Sau một thời gian làm quan, ông bắt đầu tình cảm với cung điện và quê hương, đến nỗi ông đau bệnh và xin nghỉ về quê. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí là một tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du, sử dụng chữ Hán, xuất hiện trong tập Thơ Thanh Hiên. Nó là biểu tượng của lòng nhân ái và sự đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh - một người phụ nữ tài năng nhưng không may mắn trong cuộc sống. Nguyễn Du và Tiểu Thanh, hai tâm hồn xa lạ. Ai là Tiểu Thanh? Tiểu Thanh, người phụ nữ tài năng và duyên dáng, sống trong thời kỳ nhà Minh - Trung Quốc. Tiểu Thanh được truyền kỳ là một cô gái Trung Quốc xuất sắc với niềm đam mê và vẻ đẹp, sống vào đầu thời kỳ Minh. Với tài năng từ nhỏ, cô đã nắm vững nhiều nghệ thuật như thơ ca và âm nhạc. Lúc 16 tuổi, cô kết hôn với một người quyền quý, nhưng bị vợ cả ghen tuông, buộc phải sống tách biệt trên Cô Sơn, gần Tây Hồ. Những nỗi đau và uất hận được thể hiện qua bài thơ, mặc dù nhiều tác phẩm đã bị đốt cháy, may mắn còn lại một số. Người ta in khắc và đặt tên cho tập thơ đó là “Phần Dư” (Những gì còn sót lại sau đốt cháy). Sống trong cảnh khốn khó, Tiểu Thanh mắc bệnh và ra đi khi chỉ mới 18 tuổi. Nguyễn Du đã thấu hiểu và viết nên bài thơ này. Vườn hoa ở bên Tây Hồ đã trở thành nơi hoang vu. Chỉ còn lại hình bóng của nàng qua các trang sách. Đẹp tự nhiên của nàng phải làm thiên hạ thương tâm vì số phận đắng đơn sau khi rời bỏ thế gian. Văn chương không có vận mệnh cũng bị đốt cháy nửa chừng. Mối hận thù không có cơ hội hỏi thăm trời. Sống thoải mái, hưởng thụ cuộc sống cũng chẳng thoát khỏi bản án tự mang. Ta tự nhận thấy mình đồng cảm với những người mang nỗi oan lạ lùng vì sự lịch lãm. Chẳng biết sau hơn ba trăm năm, ai sẽ khóc cho Tiểu Thanh? Bài thơ đã được nhiều người dịch ra tiếng Việt như Giản Chi, Nguyễn Quảng Tuân, Quách Tuân, và Vũ Tam Tập, mỗi người theo thể thơ gốc. Riêng Vũ Hoàng Chương chọn sử dụng lục bát. Dù hình thức dịch nào, nhưng mỗi người vẫn giữ nguyên nội dung sâu sắc của bài thơ. Trong đó, chúng ta cùng tìm hiểu và cảm nhận theo bản dịch của Vũ Tam Tập. Hai dòng đầu tiên của bài thơ: Tây Hồ hóa thành vẻ đẹp của gò hoang, Đây là cảnh tượng biểu hiện tình cảm tự nhiên mặc dù bài thơ không viết tại Tây Hồ. Đây chỉ là tưởng tượng trong trí tưởng của nhà thơ. Thực tế là nhà của người quyền quý có lẽ là đẹp, còn Tây Hồ nổi tiếng với vẻ đẹp của nó. Tuy nhiên, trong tâm trí của nhà thơ, cảnh đẹp ấy đã 'hóa thành gò hoang'. Một đồi nhỏ có thể chẳng có gì đẹp! Nhưng nó lại là một nơi chôn những linh hồn không nhân đạo, một nơi lạnh lẽo và cô đơn, giống như người đang nằm dưới 'gò hoang' kia, nàng Tiểu Thanh bạc mệnh. Chỉ còn 'mảnh giấy tàn' là phần di cảo của Tiểu Thanh Kí. Điều này làm thổn thức tâm hồn của nhà thơ, như hai dòng thơ sau đây: Son phấn mang theo hồn vẫn chưa nguôi Hoán dụ “son phấn” để tượng trưng cho Tiểu Thanh. Nguyên dụng son phấn để biểu hiện linh hồn của nàng đã chết, nhưng vẫn còn niềm căm giận với những hành động ghen tuông đã đẩy nàng vào cái chết và việc đốt cháy những tác phẩm của nàng. Sự “hận” này bắt nguồn từ sự ghen tuông mù quáng khiến nàng phải chết, và việc đốt cháy những tác phẩm, mặc dù chúng không hẳn bị cháy hết và vẫn còn lại để kế thừa cho thế hệ sau. Ở đây là những câu thơ tả cảnh sinh tình, diễn đạt lòng thương cho người tài năng nhưng gặp bạc mệnh. Từ đó, nhà thơ mở rộng ý tưởng với hai câu thơ sau: Nỗi oan trên đời khó có lời giải Có vẻ như nhà thơ muốn động viên Tiểu Thanh, tự an ủi bản thân rằng trong lịch sử, nhiều tài năng cũng đã trải qua số phận giống như nàng. Điều đó chỉ có thể được hiểu bởi trời. Tuy nhiên, thậm chí khi trời cũng hiểu, những ganh ghét từ vợ cả và sự phê phán từ xã hội đối với lối sống tự do, phong lưu và thoải mái của những người có tài, thì trời cũng không thể can thiệp. Nguyễn Du đã mở đầu Truyện Kiều bằng những dòng thơ: Trăm năm trong cuộc đời đất trời, Đầu tiên, các nhà văn thường mượn thuyết tài mệnh này để tả cuộc sống của những phụ nữ có vẻ đẹp và đức hạnh, nhưng lại phải đối mặt với nhiều oan trái. Nguyễn Dữ trong truyện 'Người con gái Nam Xương', Nguyễn Gia Thiều viết về cung nữ trong 'Cung oán ngâm khúc', Đặng Trần Côn với chinh phụ trong 'Chinh phụ ngâm'... Mỗi người phụ nữ có một số phận khác nhau. Đối với Nguyễn Du, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến cuộc sống của những phụ nữ sở hữu cả tài năng và vẻ đẹp, đặc biệt là những người bị xã hội loại trừ và suy thoái như Dương Quý Phi, Tiểu Thanh, và người con gái đàn ở Thăng Long trong thơ chữ Hán. Họ được nhà thơ cảm thông vì họ là những 'tài tình chi lắm cho trời đất ghen,' đồng thời cũng là biểu tượng cho thân phận của chính Nguyễn Du. Không biết sau ba trăm năm nữa, Đó là linh cảm của nhà thơ về số phận riêng mình. Với Tiểu Thanh, người phụ nữ xa lạ mang đến một đời sống bất hạnh, khiến nhà thơ đau lòng đến như vậy. Tuy nàng sống trước Nguyễn Du hơn cả trăm năm, nhưng liệu sau ba trăm năm, có ai còn nhớ đến và đau buồn cho nhà thơ chăng? Hiểu rõ về số phận của Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng ngay đến định mệnh của chính mình. Đúng vậy, nhưng như đã nói trước đó, nhà thơ nghĩ đến số phận của những nhà nho, những người tài năng, trong đó có chính ông. Đây là sự đồng cảm tự nhiên, một liên kết tinh tế giữa những người có cuộc sống tâm linh hướng về tình cảm. Đứng trước mộ Đạm Tiên. Kiều viết rằng: “Những tài năng vượt trội, Đông đảo khán giả luôn sẵn lòng khám phá và tận hưởng những tác phẩm xuất sắc của những 'đấng tài hoa'. Điều này được thể hiện qua những tục ngữ, bài ca dao, tác phẩm văn chương truyền thống từ xưa đến nay. Ngay cả Truyện Kiều và Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du, sau hơn hai trăm năm, vẫn được truyền tụng và tiếp tục làm say đắm người đọc. Nhà thơ vĩ đại Nguyễn Du, được coi là một đại diện xuất sắc trong văn học Việt Nam, đã chuyên sâu nghiên cứu về cuộc sống và số phận của những con người 'tài hoa, bạc mệnh', đặc biệt là những người phụ nữ như Thúy Kiều, Ca Nhi, Tiểu Thanh,... Các tác phẩm thơ của ông như một Kim Tự Tháp vĩ đại đứng giữa một vùng sa mạc khổng lồ, vẫn còn nhiều bí ẩn và giá trị kì diệu chưa được khám phá hết. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí, một tác phẩm nổi tiếng bằng chữ Hán, nằm trong tập Thanh Hiên, thể hiện lòng nhân ái và đồng cảm của nhà thơ với Tiểu Thanh, một người tài sắc nhưng đầy phận bạc. Tây Hồ, với vẻ đẹp tươi trẻ, đã hoá gò hoang, Chi phấn mang đặc tính thần thánh cuối cùng, Mối hận khó giải hỏi đời tận trời, Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí lớp 10 với góc độ mới Bất tri tam bách dư niên sau, Trong đêm tối ở huyện Nghi Xuân, những kí ức về Cụ Nguyễn Du và tình cảm đặc biệt đối với nàng Kiều hiện lên như những hình ảnh mơ mộng. Bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh ký' với thể thất ngôn bát cú là tác phẩm phản ánh sâu sắc về sự bất công và tàn nhẫn trong xã hội. Nguyễn Du thông qua hình ảnh của Tiểu Thanh diễn đạt những nỗi niềm sâu thẳm về số phận đau đớn của phụ nữ với tài năng văn chương trong thời kỳ phong kiến. """"---HẾT""""--- Chúng tôi đưa ra đề xuất Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. Ngoài ra, học viên có thể khám phá chi tiết Phân tích đoạn cuối trong đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây hay phần Phân tích bài ca dao sau: 'Khăn thương nhớ ai...Lo vì một nỗi không yên một bề...' trong chương trình Ngữ Văn 10.
Văn chương vô mệnh lụy phần dư'
(Son phấn có linh hồn, nguyện chôn sau
Lời nói rằng bạc mệnh cũng là lời chung'
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Đời sinh ra rồi cũng làm sao biết được nguyên nhân'
(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)
Phong vận oan trái ngự tự mình chịu'
(Những hận thù khôn nguôi trở thành bí mật của trời
Cuộc sống oan trái, kẻ tự mình đảm nhận)
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?'
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)
Sông Rum hết nước, họ là quan lớn.
Năm 1806, ông được triệu về Kinh làm Đông Các học sĩ.
Năm 1809, ông được bổ nhiệm làm Cai Bạ tỉnh Quảng Bình (còn được gọi là Bố Chính).
Năm 1813, ông được thăng chức cấp Chính điện học sĩ và đảm nhận vai trò làm Chánh sứ sang Tàu. Trong thời gian này, Nguyễn Du sáng tác Bắc Hành Tạp Lục. Khi trở về từ sứ vụ, ông được thăng chức Lễ Bộ Hữu Tham Tri.
Năm 1820, ông được giao trọng trách đi sứ Tàu lần thứ hai nhưng sau đó mắc bệnh và qua đời vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (theo niên niên Minh Mạng).
Thổn thức bên dòng sông, mảnh giấy tàn.
Văn chương vẫn lưu luyến dù cháy đến hơi.
Những đau thương phong lưu tự chịu
Chữ tài và chữ mệnh vẫn ghét bỏ nhau.
Người họ đau khổ Tố Như liệu còn không?
Thể xác tan rã nhưng tâm hồn vẫn trường tồn.”3. Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí lớp 10 hay nhất, mẫu số 3:
Tiểu Thanh, một cô gái tài sắc vẹn toàn, chỉ mới 16 tuổi nhưng đã phải đối mặt với những biến cố đau lòng của cuộc đời. Cuối cùng, nàng được chôn vùi dưới đất khi còn trẻ xanh. Phần tinh hoa của nàng, những trang thơ tuyệt vời, cuối cùng cũng chỉ trở thành 'mảnh giấy tàn' vì lòng đốt đồng lòng của người vợ ghen tuông. Sự thay đổi đau buồn của cuộc đời nàng được thể hiện trong cảnh vật:
Độc điếu trôi nổi trước mắt chính nhà thơ.
Vườn hoa bên Tây Hồ xưa kia là nơi trứ danh với vẻ đẹp tuyệt vời của Trung Quốc. 'Hoa uyển' và 'khư' là hai khái niệm đối lập, hình dung cho sự biến mất của cảnh đẹp Tây Hồ, trở thành gò hoang lạnh lẽo. Núi Cô Sơn bên cạnh Tây Hồ, nơi Tiểu Thanh từng bị giam giữ, giờ trở nên vắng vẻ và lạnh lẽo. Chỉ còn lại mồ của Tiểu Thanh và tờ giấy tàn 'nhất chỉ thư' - tập sách duy nhất còn sót lại của Tiểu Thanh. Câu thơ là lời thở dài của tác giả trước sự biến thiên không ngừng của cuộc sống và thương cảm với tấm lòng nhân đạo lớn: mọi thứ đều thay đổi theo thời gian, và Tiểu Thanh cũng dần bị lãng quên theo dòng thời gian. 'Độc điếu' - biểu tượng cho sự cô đơn, đơn độc khi Nguyễn Du một mình vượt qua không gian và thời gian để quay về quá khứ, khóc than cho số phận của Tiểu Thanh thông qua 'nhất chỉ thư'.
Văn chương không có số mệnh chỉ còn lại phần dư.
'Son phấn', 'văn chương' là những biểu tượng ẩn dụ cho vẻ đẹp và tài năng của Tiểu Thanh. Nguyễn Du sử dụng hình ảnh của chúng để nói về sự đố kị, ganh ghét từ phía người vợ cả và xã hội. Nhớ lại bi kịch của cuộc đời Tiểu Thanh - một cuộc đời đơn độc và lạc lõng. Ông thổi hồn vào son phấn để chúng truyền đạt tiếng nói thương cảm, xót xa cho số phận đau buồn, với son phấn 'có thần' phải xót xa vì những bi kịch sau khi chết. Giống như hoa đã tàn nhưng hương sắc vẫn tồn tại, tỏa hương đâu đó, người đời sẽ mãi thương xót cho những phụ nữ 'hồng nhan bạc mệnh'. Còn 'văn chương' - một thứ vô tri, vô giác, không có số mệnh nhưng vẫn còn lại như 'phần dư', như là một linh hồn cố gắng đối đầu với số phận. Dù có bị đốt cháy, nhưng những gì còn sót lại đã làm cho người đời cảm thấy hết sức quý giá. Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm cho số phận của những phụ nữ tài sắc nhưng bị xã hội xưa coi thường và đồng thời thay họ bày tỏ nỗi uất hận sâu sắc.
Phong vận kỳ oan, tự chịu số mình.
'Cổ kim hận'' là những nỗi oan khó khăn mà những người tài năng từ xưa đến nay vẫn phải chịu đựng cay đắng và đau lòng. Kêu trời nhưng biết làm thế nào, câu hỏi vẫn đặt ra mà không có câu trả lời. Nỗi oan của những con người tài sắc vẹn toàn như Tiểu Thanh trở nên sống động qua câu thơ, làm rung động cả trời đất. Nguyễn Du xem mình như một phần của hội của Tiểu Thanh - những người tài hoa bị đánh bại bởi 'phong vận' kì lạ. Cuộc đời của Tiểu Thanh là nguồn sáng tạo cho tâm hồn của Nguyễn Du, ông cảm nhận nỗi đau của những người tài năng đa tài và đa vấn đề. 'Ngã tự cư' - Nguyễn Du biết mình không thể tránh khỏi sự nghiệt ngã trong hội của những con thuyền giữa biển đời sóng gió. Đau lòng tận cùng, ông thốt lên tiếng than của một trái tim đầy nỗi đau nhân sinh.
Thiên hạ có ai nhớ Tố Như?
Nguyễn Du, một tài tử trong lịch sử, và Tiểu Thanh, một cô gái hồng nhan. Mặc dù chia cách 300 năm, nhưng ông cảm nhận sự tương đồng giữa mình và người con gái ấy. 'Tài tử gian nan, hồng nhan bạc mệnh.', Tiểu Thanh để lại một 'nhất chỉ thư', một mảnh giấy tàn phai mà 300 năm sau Nguyễn Du vẫn thương xót cho số phận của nàng. Câu hỏi đặt ra như là ông tự hỏi liệu 300 năm sau có ai nhớ đến ông giống như ông nhớ đến Tiểu Thanh. Ông phân vân, mong đợi rằng những người đến sau cũng sẽ cảm thông, thương cảm với ông. Hai câu thơ là biểu hiện của tâm trạng cô đơn của ông ở 'đất khách quê người' trong những chuyến đi sứ, ông cảm thấy mình cô đơn, không có tri kỉ, một mình mang nỗi oan của kẻ tài hoa bạc mệnh: 'Người đời ai khóc Tố Như chăng?'.
Ngày 1/11/1965, trong kỷ niệm ngày sinh của Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng thơ: