1. Bài Mẫu Số 1
2. Bài Mẫu Số 2
3. Bài Mẫu Số 3
Đề Bài: Phân Tích Văn Bản Bài Thơ Hai Chữ Nước Nhà của Trần Tuấn Khải
3 bài luận mẫu Phân Tích Bài Thơ Hai Chữ Nước Nhà của Trần Tuấn Khải
1. Phân Tích Bài Thơ Hai Chữ Nước Nhà của Trần Tuấn Khải, Mẫu Số 1:
Trần Tuấn Khải thường sử dụng lịch sử để thể hiện lòng yêu nước và nỗi đau mất nước, thức tỉnh tinh thần cộng đồng. Ông là một nhà thơ nổi tiếng thế kỉ XX với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Bài thơ Hai Chữ Nước Nhà là một tác phẩm tiêu biểu, sâu sắc với thể thơ song thất lục bát. 'Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn' (Xuân Diệu).
Sự chia ly cảm động giữa cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan là những khoảnh khắc đặc biệt, cảm xúc mạnh mẽ mà Trần Tuấn Khải khéo léo sử dụng để thể hiện tâm trạng và cảm xúc hiện tại. Lời biệt ly của người cha đối với con chất chứa nhiều ân tình, nỗi đau thấm đẫm. Tiếng lòng sầu thảm, âm thanh oán trách xen kẽ nhau, tạo nên một bức tranh cảm xúc đậm đà. Sự lựa chọn thể thơ song thất lục bát là chọn lựa chín chắn của tác giả để diễn đạt những cảm xúc sâu sắc đó.
Văn Bản Trích Từ Bài Thơ Hai Chữ Nước Nhà có thể được chia thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn đạt tâm trạng của người cha trong hoàn cảnh khó khăn, đau đớn; phần 2 (20 câu tiếp theo): mô tả cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ cuối cùng): thể hiện sự xót xa và tâm nguyện cứu nước của người cha gửi đến con. Từng phần mang đến cho độc giả những trải nghiệm cảm xúc sâu sắc, chân thành trong bài thơ.
Trong 8 câu thơ đầu, tác giả tạo nên bối cảnh biên giới âm u, cuốn hút và tâm trạng của nhân vật chân thật. Bốn câu đầu mô tả không khí chia ly:
Bên ải Bắc, mây sầu đậm,
Cõi trời nam, gió thảm hiu quạnh.
Bốn phía hổ thét, chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như than khóc bất bình.
Các Bài Phân Tích Bài Thơ Hai Chữ Nước Nhà Xuất Sắc Nhất
Trong cuộc rời bỏ mà không hẹn ngày trở lại, biên giới này trở thành nơi Nguyễn Phi Khanh chia tay vĩnh viễn quê hương, tổ quốc, và người con thân yêu. Tâm trạng của người chuẩn bị rời bỏ vĩnh viễn phủ lên khung cảnh đã heo hút, âm u, màu tang tóc thê lương. Tâm hồn u sầu và cảnh đau đớn tô điểm bằng gam màu xám đen của tang tóc, tạo nên không khí u buồn dường như kéo dài mãi mãi. Đoạn thơ này tạo ra bầu không khí chung cho toàn bài, phản ánh không khí thời kỳ lịch sử (thời kỳ của Phi Khanh - Nguyễn Trãi) và cũng là bức tranh của xã hội Việt Nam thập kỷ 20. Bốn câu thơ tiếp theo đầy máu lệ và đau đớn:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài bước ra khỏi dải biển,
Con ngắm nhìn, lòng chìm nghỉm,
Con ơi, hãy ghi nhớ lời cha dặn.
Phút này đây, cha sẽ rời đi mãi mãi. Đất nước đau khổ, cha và con bắt tay chia tay, tình cha con lưu luyến trong tình thương đất nước lớn lao bị áp bức trong tình cảm phụ tử sâu sắc. Nguyễn Phi Khanh bị đày sang nước Tàu để làm nô lệ. Để báo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn theo đi để phụng dưỡng. Tuy nhiên, Phi Khanh từ chối và khuyên con quay về để báo thù cho nhà, đền nghĩa cho nước. Người chuẩn bị rời đi vĩnh viễn thường bày tỏ những lời can đảm, những lời mà người sống phải nhớ mãi. Đó là những lời gan lì ruột, những lời mà người sống phải khắc sâu vào tâm hồn.
Tình cảm của người cha đối với đất nước rất xúc động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2, tác giả trải nghiệm cuộc sống của người li biệt để mô tả cảnh đau thương của đất nước bị bóc lột. Tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả kết hợp với những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan tác, tất cả chìm đắm trong thảm họa 'xương rừng máu sông'; uất hận và đau thương dường như lấn át bầu trời:
Những bi kịch của quốc gia kể sao đủ nặng,
Trông cơ đồ nát bét, lòng xót xa,
Dằn lòng đất khóc, giói than thương tâm,
Thương tâm cho giống lầm than nỗi đau này!
Nỗi đau ở đây không chỉ là nỗi đau riêng lẻ, mà là một nỗi đau to lớn, vươn cao thành nỗi đau cao quý, thiêng liêng của cả đất nước và dòng họ. Sự toàn vẹn này được thể hiện qua hàng loạt hình ảnh lớn mạnh: thảm vong quốc, cơ đồ nát bét, đất khóc, giói than, giống nòi. Xúc cảm mạnh mẽ, sâu sắc được diễn đạt thông qua những từ ngữ mạnh mẽ, bi thương: kể sao, xiết kể, xé tâm can, ngậm ngùi, đất khóc, giói than, thương tâm. Mỗi câu thơ là một lời kêu than bi thảm, chứa đựng sự căm hận, phẫn nộ. Không đủ nước mắt để thấu hiểu những đau thương nổi lên trên cả nền đất, đắng cay chìm sâu vào trái tim, người cha truyền đạt tâm huyết cho con:
Cha, với thân thể yếu đuối ở tuổi già,
Vụng sa cơ đồ, chẳng còn sức mạnh,
Thân lươn nặng gánh đầy bùn lầy,
Nhưng giang sơn đau đớn, con hãy cầy con.
Con hãy nhớ về tổ tiên xa xưa,
Người đã đương đầu với khó khăn vì nước nhà.
Phân biệt Bắc Nam, đất nước chia rẽ,
Ngọn cờ độc lập vẫn nở đỏ máu chiến sự...
Cha bày tỏ sự bất lực của mình, trao phận cho con, 'tuổi già sức yếu', gặp rắc rối và phải chấp nhận bó tay. Khơi gợi truyền thống kiên trì, không khuất phục của tổ tiên, người cha muốn thức tỉnh trong con niềm tin yêu và lòng căm hận đối với sự xâm lăng, là nguồn động viên, niềm tin mạnh mẽ để khôi phục đất nước. Ngôn từ truyền đạt tâm trạng uất hận, hối hận của người cha trước khi rời đi mãi. Ông muốn con biến nỗi đau của mình thành niềm oan trái mất nước.
Mượn lời xưa để tâm sự hiện tại, mượn câu chuyện ngày xưa để kể về chính ta đã từng là phương pháp sáng tạo lâu đời trong văn hóa truyền thống. Trần Tuấn Khải đã thành công khi chơi chơi xổ số tài chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để truyền đạt tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm thức tỉnh tinh thần yêu nước khi đất nước bị chà đạp bởi bước chân thực dân. Với tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, và giọng điệu thống thiết, thánh ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã hoàn thành trách nhiệm, nghĩa vụ cao quý của nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông khuyến khích tâm hồn người, động viên mọi người chiến đấu cho sự độc lập, tự do của giang sơn.
2. Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải, mẫu số 2:
Tác giả: Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút hiệu Á Nam, quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Á Nam Trần Tuấn Khải thường mượn câu chuyện lịch sử để trình bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, nhằm đánh thức tinh thần của đồng bào. Bài thơ nổi bật và để lại nhiều ấn tượng nhất của tác giả có lẽ là 'Hai chữ nước nhà'. Vì lẽ đó, tác phẩm đã truyền đạt được tâm huyết và tình yêu nước của nhân dân Việt Nam thời điểm đó.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu cho tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta. Nhà thơ đã sử dụng lời dặn dò của người cha là Nguyễn Phi Khanh để gửi gắm tâm tư của mình. Đoạn trích có 36 câu thơ trong thể thơ song thất lục bát. Phần đầu: 8 câu thể hiện cảnh chia li ở biên giới, giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi, khung cảnh đen tối, đau đớn. Phần thứ hai: 20 câu tiếp theo kể về giống Lạc Hồng, lịch sử lâu dài của dân tộc và những tổn thất đau thương đất nước đang phải chịu đựng. Phần cuối cùng: 8 câu tập trung vào lời dặn dò của người cha, thể hiện niềm tin sâu sắc vào đất nước.
Bắt đầu bài thơ, mở ra bức tranh đau lòng của nơi chia li không thể trở về của người cha, tạo nên không khí u buồn bao trùm bài thơ:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Bài viết Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải
Khởi đầu, tác giả vẽ nên khung cảnh đau thương của đất nước dưới cương vị thống trị của kẻ thù ngoại xâm. Hình ảnh được mô phỏng rất tinh tế: 'mây sầu ảm đạm', 'gió thảm đìu hiu', 'hổ thét chim kêu'... Cảnh sắc núi sông như đeo đuổi nỗi đau của con người. Toàn bộ không gian từ 'chôn ải Bắc' đến 'chốn ải Nam'' và 'khắp bốn bể' đều chia sẻ nỗi đau chung với những con người ở đây. Mỗi câu thơ như một giọt nước mắt, giọng thơ cảm động và chân thành: 'Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước/ Chút thân tàn lần bước dậm khơi / Trông con tầm tã châu rơi' . Hình ảnh của người cha già với chút thân tàn dần bước chân vào chốn lưu đày khiến trái tim người con đau xót. Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi rất bi đát, con muốn đồng hành nhưng cha dằn lòng khuyên con quay về, đề xuất con trả thù nhà, đền nợ nước.
Phần thứ hai mang lời dặn từ tâm huyết của Nguyễn Phi Khanh gửi đến Nguyễn Trãi. Ghi nhớ 'hai chữ nước nhà' là nhớ về dòng họ Hồng Lạc, nhớ về lịch sử lâu dài 'mấy ngàn năm' của dân tộc, là kỷ niệm về giang sơn 'giữa Nam bộ một cõi này', là nhớ đến bao 'anh hùng hiền nữ'... mục đích là để đẩy cao lòng tự hào dân tộc. Tác giả có tài hóa thân, mượn lời để diễn đạt tình cảm một cách tài tình. Tuy nhiên, sau đó là những câu thơ bộc lộ bức tranh thê thảm của non sông đất nước, giọng thơ ngày càng trở nên căm phẫn hơn:
Than vận nước gặp biến động
Ðể quân Minh nắm quyền xâm chiếm
Bốn phương khói lửa bốc lên
Tiết lộ bi kịch xương rừng máu sông!
Thành thị tan vỡ đau lòng
Dân thường phải chia lia con
Xiêu tán hao mòn từng nẻo
Không có điểm đâu đáng thương đến!
Thảm vọng quốc kể không xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Khói Nùng lĩnh như làm đau lòng
Sóng Long giang nhường như sầu thảm
Con ơi! càng nói càng đau...
Làm thế nào để xóa mờ dấu vết?
Tác giả sử dụng sự kết hợp của tự sự và miêu tả, xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, toàn bộ chìm ngập trong thảm họa 'xương rừng máu sông', lòng dân căm phẫn. Các từ ngữ hình ảnh như 'khói lửa bốc lên', 'xương rừng máu sông', 'thành tan vỡ', 'đất khóc giời than', 'xây khối nát', 'vật cơn sầu'... mặc dù mang đầy tính chất ước lệ, nhưng vẫn truyền đạt một cách mạnh mẽ vì đã đánh thức nỗi nhục mất nước, lòng căm hận đối với kẻ thù xâm lược. Ngoài ra, tác giả sử dụng động từ và tính từ có sức gợi cảm cao như: 'kể không xiết', 'xé tâm can', 'thương tâm', 'lầm than' và những hình ảnh gây xúc động 'Ngậm ngùi khóc đất giời than' đã phản ánh mức độ thảm họa của tình cảnh mất nước lúc đó.
Tám câu cuối cùng là lời kêu gọi, dặn dò của người cha trước lúc chia tay:
Cha tuổi già, sức yếu, lòng xót thương con,
Lỡ mắc sai lầm, chấp nhận bó tay,
Thân lươn nằm trong vùng lầy lội,
Gánh nặng đất nước dựa cậy vào con.
Con hãy nhớ tổ tiên chúng ta trước đây,
Đã gian khổ vì nước, vượt qua gian lao.
Từ Bắc đến Nam, biên cương đổi thay,
Ngọn cờ độc lập vẫn còn đỏ máu đào...
Thay vì lời cha, Á Nam Trần Tuấn Khải lưu lại lời lòng, tâm huyết cho Nguyễn Trãi. Người cha muốn thắp lên trong con ngọn lửa căm thù đối với kẻ xâm lược, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ quốc gia. Bàn giao trọng trách sơn hà, xã tắc, uỷ thác cho thế hệ tương lai với tất cả niềm tin và hy vọng.
Mượn cốt truyện xưa để nói về hiện tại, mượn câu chuyện của người khác để diễn đạt tâm trạng của mình là một phương pháp văn học có từ lâu. Trong tác phẩm, Á Nam Trần Tuấn Khải đã thành công khi truyền đạt cảm xúc sâu sắc trước tình cảm yêu nước mãnh liệt của người cha, đồng thời cũng là tâm huyết yêu nước mạnh mẽ của nhà thơ, làm cho tác phẩm trở nên sống động trong tâm trí người đọc.
3. Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải, mẫu số 3:
Trần Tuấn Khải, bút danh Á Nam, sinh năm 1895 tại làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Là nhà Nho tiến bộ, ông tinh tế sử dụng đề tài lịch sử và nghệ thuật để diễn đạt lòng căm giận về mất nước, thách thức bọn xâm lược, và kêu gọi tự do. Thơ của ông nổi tiếng qua những bài hát dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, và đặc biệt là Hai chữ nước nhà, sáng tác dưới dạng thơ lục bát và song thất lục bát.
Bài thơ Hai chữ nước nhà mở đầu tập Bút quan hoài I, viết vào năm 1924. Nguyễn Phi Khanh, viên quan tài giỏi bị giặc bắt, đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi muốn đi theo chăm sóc cha, nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con quay về để mưu tính trả thù nhà, đền nợ nước.
Trích đoạn sách giáo khoa có 36 câu, nói về cuộc chia tay bi thương của cha con Nguyễn Trãi trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược. Trong cảnh đau lòng, Nguyễn Phi Khanh khuyên con biết nuốt hận, chờ thời cơ để báo thù nhà, giải phóng đất nước. Cha già gửi niềm tin vào con trai, hy vọng con tiếp tục sứ mệnh lớn.
Trích đoạn có thể chia thành ba phần:
Phần đầu: Tâm trạng đau đớn của cha trong cảnh éo le; Phần tiếp theo: Hiện tình đất nước đau thương, tang tóc; Phần còn lại: Bất lực của cha và lời tâm huyết gửi cho con.
Tại sao Hai chữ nước nhà là tựa đề? Tựa đề kết nối với tư tưởng bài thơ như thế nào?
Nước và nhà, hai khái niệm trong hoàn cảnh cha con Nguyễn Trãi và đất nước vào thế kỉ XV và XX. Mất nước là nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả khi thù nước đã rửa. Nguyễn Phi Khanh khuyến con hãy lấy nước làm nhà, thể hiện sự liên kết không thể tách rời giữa nước và nhà.
Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả chân thật tái hiện khung cảnh chia li và tâm trạng đau thương của cha con Nguyễn Trãi, như 'gảy vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người' (Xuân Diệu).
Lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là sự trăn trối của cha với con trong lúc giã biệt vĩnh viễn. Câu cảm thán tạo nên không khí lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát phù hợp diễn tả tâm trạng nặng trĩu buồn thương của nhân vật.
Nội dung bài thơ không chỉ hoài cổ mà còn chứa đựng tâm sự phẫn uất, đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan hiện tại. Bài thơ gây rung động và truyền tụng rộng rãi, đặc biệt trong tầng lớp trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước.
Khung cảnh cuộc chia li được mô tả như sau:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà, văn mẫu tuyển chọn
Cuộc chia tay giữa cha và con diễn ra tại biên ải phía Bắc, vùng đất ảm đạm, heo hút, nơi mây sâu, gió thảm, hổ thốt và tiếng chim kêu rợp. Nơi đây là điểm kết thúc cuộc hành trình, nơi Nguyễn Phi Khanh lựa chọn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người thân yêu. Tâm trạng đau đớn của kẻ lưu đày biệt xứ phản ánh đầy đủ trong cảnh vật, với màu tang tóc và thê lương, như Cơn sầu giữa lòng người nặng tình non nước.
Tình yêu nước của tác giả biến những hình ảnh và từ ngữ ước lệ trong thơ cổ điển thành sự chân thực và cảm động. Tác giả dường như chứng kiến trực tiếp cuộc chia tay đau đớn đó và đồng cảm với tâm trạng nhân vật, viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp hữ xưa nay kém gì Ị
Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Trung Quốc, không ngóng ngày trở về; con muốn đồng hành để phụng dưỡng cha già, nhưng cha khuyên con trở lại, để mưu tính trả nợ nước, đền thù nhà. Đối với cả hai, tình nghĩa đất nước và tình nhà đều thiêng liêng sâu sắc.
Trước biến cảnh mất nước, tan nhà và cuộc chia li cha con, nỗi đau xót xa trong họ càng trở nên gấp bội.
Nguyễn Phi Khanh tâm huyết khuyên con những điều quan trọng. Ông nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt: 'Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định'. Sau đó, ông phân tích lịch sử cho con hiểu về các chu kỳ hưng thịnh và suy vong của triều đại, cùng với những gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước không kém phần quan trọng. Người phụ nữ đôi khi làm nghĩa hiệp, thậm chí hơn cả nam nhi.
Nguyễn Phi Khanh tôn trọng bốn chữ 'Giang sơn' và giải thích cho Nguyễn Trãi - người con được ông trân trọng. Trong tình cảnh và tâm lý như vậy, lời khuyên của người cha trở nên như một lời thánh thiêng và cảm động, chạm đến linh hồn của người con.
Tác giả đặt mình vào tâm trạng của Nguyễn Phi Khanh, người lưu đày, đau đớn trước lo lắng cho tương lai đất nước. Tâm tư này miêu tả tình hình thảm thương của đất nước và lên án tội ác của quân xâm lược, nhưng trong ngôn từ của người cha đã biến nó thành một tác phẩm xúc động và trang nghiêm.
Biến động thời vận khiến nước gặp nhiều biến cố,
Quân Minh thừa kế hội bị xâm lăng,
Lửa cháy khắp nơi bốc lên bừng bừng,
Nỗi thảm họa như xương rừng máu chảy sông!
Ở thành thị, những khu dân cư tung ra những tiếng nổ quách vỡ,
Chỗ nông thôn, người dân bỏ mặc gia đình lìa xa con cái,
Điều này làm cho sự suy tàn và hủy hoại gia tộc trở nên thường xuyên,
Có gì mới mẻ khi cảnh tượng giống nhau, nỗi đau khó lòng không còn đủ để thương tâm!
Những câu thơ này đặt người đọc vào trạng thái của sự nhục nhã vì mất nước. Giống như kẻ thù Pháp hiện nay không khác gì giặc Minh ngày xưa, vẫn gây ra những đau thương tang tóc trên đất nước ta.
Liên tục giữa những dòng tâm tư chua cay là những lời cảm thán đau lòng, bi thương:
Thảm vong quê hương tả sao kịp kể,
Trông cơ đồ đất nước nhượng bộ tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc, trời than,
Thương tâm với giống nòi trong đau đớn này!
Các từ ngữ như kể sao cho xiết, xé tâm can, thương tâm, lầm than thể hiện sự kinh hoàng của tình trạng mất nước lúc đó. Hình ảnh Ngậm ngùi đất khóc giời than như một biểu tượng cho tình cảm đau đớn, thảm thiết, chẳng khác gì lời đánh giá của Phan Bội Châu.
Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh trở thành nỗi đau to lớn, vượt lên trên cá nhân, biến thành nỗi đau của cả nước. Mỗi lời nhắn nhủ cho con như một tiếng thanh ca, tiếng nấc nghẹn đắng cay. Giọng thơ bi phẫn của Trần Tuấn Khải phản ánh chân thực tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật Nguyễn Phi Khanh, làm xúc động lòng độc giả, đặc biệt là những tâm hồn đồng điệu thời kỳ.
Trong những giây phút cuối cùng bên con, Nguyễn Phi Khanh đặt ra cho Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, nỗi niềm băn khoăn không dứt trong lòng ông:
Khói Nùng Lĩnh xốc lên như khối uất,
Sông Hồng Giang chảy tràn cơn sầu,
Con ơi! Càng nói, càng thấu đáo,
Ai có thể thay thế chăm sóc đàn em sau này?
Hình ảnh khói Núi Nùng, sóng Sông Nhị (Sông Hồng hay còn gọi là Nhị Hà) được tác giả mượn để biểu hiện sự căm ghét mạnh mẽ về quân xâm lược, cũng như sự lớn lao, vững chắc của cơ nghiệp ông cha, tổ tiên đã xây dựng suốt hàng thế kỷ. Nhưng bây giờ, sao con cháu lại rơi vào tay kẻ thù?
Nói đến tình trạng 'lực bất tòng tâm' của Nguyễn Phi Khanh, nước mắt tràn đầy trên bút tác giả:
Cha lòng xót thương tuổi già yếu đuối,
Một sai lầm, quyết tâm chấp nhận thất bại,
Thân lươn ôm trọn vùng đất lầy lội,
Gánh sơn hà, hy sinh cho con cái.
Con hãy ghi nhớ công lao tổ tiên,
Chinh chiến vì nước, đau khổ mỗi phen.
Bắc Nam, sự chia rẽ phân mao,
Ngọn cờ độc lập, máu nước không phai...
Mọi lời dạy của Nguyễn Phi Khanh đều là lời ruột, tâm huyết truyền đến con cái. Gánh nặng của sơn hà và xã tắc đã được truyền cho thế hệ sau với niềm tin và hy vọng. Lời khuyên của cha là nguồn động viên, thức tỉnh lòng quyết tâm anh hùng trong con. Cha khích lệ con phải làm cho xứng đáng với truyền thống oanh liệt của tổ tiên, những người đã hy sinh vì nước.
Cuộc chia tay giữa cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, trong bối cảnh đất nước mất nhà tan tác, được Trần Tuấn Khải tài hoa tái hiện trong bài thơ 'Hai chữ nước nhà'. Tác giả không chỉ thể hiện cảm xúc cá nhân mà còn khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của người dân. Tình cảm sâu đậm với đất nước của tác giả đã làm nên sức sống lâu dài cho tác phẩm.
Xuân Diệu - nhà thơ tài năng nhận xét: 'Hai chữ nước nhà' là bài thơ hay nhất tổng hợp mô típ văn thơ yêu nước Á Nam. Tác phẩm này vượt qua các giọng bi tráng, mỉa mai đến chất căm hờn, lời mắng mỏ. Từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san.
""""--KẾT THÚC"""""--
Để làm bài văn về Phân tích văn bản Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải, học sinh có thể tham khảo thêm Soạn bài Hai chữ nước nhà hoặc phần Phân tích nội dung và nghệ thuật thể hiện của đoạn trích Hai chữ nước nhà để phát triển kỹ năng làm văn.