
Hồ Xuân Hương được coi là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc. Mặc dù tác phẩm của bà không nhiều, chủ yếu là những bài thơ Nôm dân gian và tập thơ chữ Hán Lưu Hương kí, nhưng bà đã khẳng định được vị thế của mình trong văn học Việt Nam với một phong cách thơ độc đáo. Vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã tập trung vào việc nghiên cứu về đóng góp của bà cho thơ ca trung đại Việt Nam. Theo Hoàng Hữu Yên: Thơ của Hồ Xuân Hương là tươi sáng nhất; trong khi đó, Xuân Diệu đánh giá Hồ Xuân Hương như một vị nữ hoàng của thơ Nôm. Xuân Hương sử dụng thể thơ Đường một cách tự nhiên mà không hề gây ra cảm giác là một thể loại thơ nhập nội. Thơ của Xuân Hương luôn gần gũi và tự nhiên như cuộc sống hàng ngày (…) Xuân Hương thật xứng đáng là nữ hoàng của thơ Nôm.
Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về đề tài của tác phẩm Tự tình. Tự tình ở đây là tình cảm tự nhiên, là sự bộc lộ của tâm hồn, là lời nói của con tim khao khát hạnh phúc, là tiếng kêu than của tâm hồn đau đớn, cảm thấy xót xa… Đọc tập thơ của Xuân Hương, chúng ta nhận thấy một con người luôn phẫn nộ, luôn căm hận chế độ phong kiến thối nát của thời đại, nhưng đồng thời trong tác phẩm của bà cũng luôn ca ngợi và bảo vệ vai trò của phụ nữ trong xã hội xưa. Bên cạnh đó, trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương luôn hiện hữu một tâm trạng khao khát hạnh phúc, muốn thể hiện bản thân mình. Tâm trạng ấy có lúc mãnh liệt, nhưng cũng có lúc cô đơn, uất hận và xót xa, bế tắc giữa cuộc sống.
Như đã đề cập trước đó, Tự tình là một tác phẩm thơ Nôm được viết theo lối luật Đường. Tác phẩm bao gồm 56 chữ, 8 câu được chia thành 4 phần: đề, thực, luận, kết, với niêm luật chặt chẽ, hàm súc và sâu sắc, lời ít nhưng ý nhiều. Hai câu đề của tác phẩm là biểu hiện của nỗi niềm cô đơn và sự bất bình trước thân phận thiệt thòi quá lớn.
Âm thanh của con gà vọng lại vang vọng trên chốn bom
Lòng oán hận trải dài khắp mọi nẻo đường.
Thường thì, câu thơ đầu tiên của một bài thơ thất ngôn bát cú có nhiệm vụ mở ra cánh cửa thấy núi (Khai môn kiến sơn). Câu thơ mở đầu giúp chúng ta hiểu phần nào về chủ đề của bài thơ. Câu thơ đầu tiên của bài thơ này ban đầu có vẻ không thể nào phản ánh được chủ đề của nó. Nó chỉ là dấu hiệu của thời gian (âm thanh của con gà vọng lại vang vọng trên chốn bom) mà chúng ta thường gặp trong thơ cổ:
Gió đưa cành trúc nhẹ nhàng
Tiếng chuông của Trấn Vũ gọi gà Thọ Xương.
Hoặc như tiếng gà chuyển ca trong thơ của Bác:
Con gà gáy một lần khi đêm còn tối
Chùm sao dẫn dắt ánh trăng vượt qua ngàn mây.
Nhưng đằng sau tiếng gà gáy vang vọng ám ẩn sau một tâm trạng đắng cay, buồn bã, cô đơn. Lúc này con người đã phải đối mặt với chính mình. Tiếng gà như một âm thanh chua chát đọ vào tâm trạng cô đơn của nữ sĩ khiến cho bà phát ra những lời đầy oán hận: Oán hận trải dài khắp mọi nơi. Hai câu thơ trên đã cho thấy phần nào tâm trạng đắng cay chua xót của nhà thơ. Nỗi bất hạnh đó còn được thể hiện sâu sắc hơn ở những câu thơ sau.
Hai câu thực tế nhà thơ đã diễn tả nỗi uất ức đắng cay như lặn sâu vào trong tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh:
Mõ thảm không kêu mà vẫn vọng
Chuông buồn không đánh mà sao vang.
Khi phân tích hai câu thơ này, các nhà nghiên cứu đã cho rằng ở đây Hồ Xuân Hương sử dụng phương pháp tu từ – mượn hình ảnh khách quan để áp dụng vào bản thân để diễn tả nỗi giận dữ khó kìm lại được. Ở đây nhà thơ không chỉ mượn hình ảnh khách quan để áp dụng vào bản thân mà chủ yếu nhằm lột tả đau đớn cô đơn bế tắc của mình. Chuông buồn, mõ thảm là những thứ gợi lên cảm giác buồn đau cô đơn lạc lõng. Nhưng ở đây làm gì có kêu có đánh mà nó vẫn vang lên những tiếng nghe khô khốc thảm đạm làm sao. Vậy đó là những tiếng gì? Đó là tiếng của nỗi lòng, tiếng của sự bất hạnh giữa dòng đời. Vọng lại một tiếng nghe ảm đạm làm sao? Với từ vang tác giả đã thể hiện rõ sự bế tắc cay đắng trước cuộc đời đen tối, bất công.
Vậy qua bốn câu thơ đầu tiên chúng ta đã hiểu rõ được sự phẫn uất bất hạnh đắng cay cô đơn trong cuộc đời của nữ sĩ tài hoa. Sự bất hạnh đó phần nào được giải thích ở hai câu thảo luận của bài:
Trước nghe những tiếng buồn rầu
Sau giận vì chuyện để lời lắm.
Hóa ra sự bất hạnh của bà chúa thơ Nôm là những tiếng nghe buồn rầu. Đó là tiếng gì vậy? – Lời đồn đại, chuyện đơn sai chẳng? – Miệng thế gian biết đâu mà lường! Nhưng làm sao tránh khỏi? Những chuyện chẳng đâu vào đâu mà buồn phiền cứ dồn ập đến. Nói lên điều này chúng ta lại càng cảm thông hơn cho con người chịu nhiều bất hạnh thua thiệt hay xã hội xưa. Coi xã hội tàn nhẫn vô lương tâm đã vùi lấp con người. Hai tiếng buồn rầu nói lên sự chua cay của nó. Từ chuyện nhân thế chuyển về chuyện riêng tư sau giận vì cái duyên lời lẽ cũng không phải tại mình mà duyên phận cứ nổi nênh, bạc bẽo: Cảnh quá lứa lỡ thì chua chát biết bao!
Qua sáu câu thơ trên, ta đã nhận thấy sự bất hạnh trong cuộc đời, nỗi thất vọng, nỗi chán chường. Ta đã hiểu phần nào nguyên nhân gây ra những nỗi đau xót đó. Tất cả những điều đó, ta có cảm tưởng như Xuân Hương không thể đứng vững trước sóng gió cuộc đời. Nhưng không, Hồ Xuân Hương vẫn kiêu hãnh thách thức với một tư thế vô cùng mạnh mẽ.
Tài tử văn nhân ai đã biết
Thân này chưa từng biết cái già tom.
Đó mới là Hồ Xuân Hương đích thực, là người luôn đấu tranh cho mọi bất công, mọi sự không công bằng trong cuộc sống. Trong thơ của Hồ Xuân Hương, ta thấy rõ cá tính đó:
Khi nhạo báng tên tướng kém
Nhưng đây, đổi số phận trở thành người hầu
Thì liệu anh hùng còn đáng được kính trọng không?
Khi phủ nhận một quy tắc không công bằng
Thì đóng vai trò của người cai trị, nhưng lòng miệng thế gian vẫn chia rẽ
Không tồn tại nhưng có mới là đạo lý.
Đôi khi lại tự khẳng định một cách quyết liệt:
Nghiêng ngả trước thử thách của trời cao và đất thấp
Thử đo đất xem rộng hẹp.
Đó là những lời chỉ trích, thách thức với tư duy đối mặt với mọi ý kiến, mọi quyền lực. Tính tự tin đó đã tạo nên bản lĩnh sắc sảo và độc đáo của cá nhân trong thơ Hồ Xuân Hương. Dù phải đối mặt với những khó khăn và đau đớn đến đâu, cá nhân vẫn kiên quyết chiến đấu đối diện với mọi ý kiến không công bằng của xã hội. Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ta cảm nhận được nỗi đau khổ của thân phận một nữ sĩ, nhưng cũng không thể không ngưỡng mộ sự quyết định và sự chiến đấu vì quyền lợi sống hạnh phúc chân chính của con người. Bài thơ Tự tình thực sự là biểu tượng cho tinh thần lãng mạn trong thơ của Xuân Hương.