Đề bài: Các bạn hãy phân tích tâm sự của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh Kí để hiểu rõ những tâm tư, nỗi lòng thầm kín mà tác giả thể hiện trong bài thơ.
Bài văn mẫu phân tích tâm lý của Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh Kí
Đồ án
Truyện thơ Độc Tiểu Thanh ký, một tác phẩm của Nguyễn Du, kể về cuộc đời bi thương của nàng Tiểu Thanh. Nàng, mồ côi từ nhỏ, sống trong cảnh đau khổ và bất hạnh. Hôn nhân đau lòng, sự cô đơn, và tình yêu sâu đậm, tất cả được tác giả lồng ghép trong bài thơ này.
'Nàng Tiểu Thanh, hay Phùng Văn Cơ (1594 - 1612), một số phận bi thảm từ lúc nhỏ, sống trong gia đình nghèo đói. Sự tài năng và vẻ đẹp của nàng đã thu hút một công tử ngốc nghếch. Nhưng hôn nhân không hạnh phúc, và nàng chỉ biết xua đuổi cô đơn bằng cách viết thơ, vẽ tranh. Trước khi ra đi, nàng đặt dàn họa sĩ vẽ bức tranh cuối cùng, tượng trưng cho cuộc đời rực rỡ của mình. Cuộc đời nàng kết thúc sớm, nhưng tình yêu và tâm hồn của nàng vẫn sống mãi trong bài thơ Độc Tiểu Thanh ký.'
Chuyện kể về Tiểu Thanh đã làm cho Nguyễn Du cảm hứng sáng tác Độc Tiểu Thanh ký, một tác phẩm thể hiện tâm trạng u uất trong hoàn cảnh tế nhị. Tác giả tinh tế diễn đạt tâm tư của mình thông qua bài thơ này.
Ngẫm nghiên trong từ ngôn và tâm tư của bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, ta nhận thấy Nguyễn Du không viếng thăm nàng Tiểu Thanh mà chỉ tập trung vào một tờ giấy. Ông không thể hiện sự đồng cảm rộng lớn với cuộc đời của nàng Tiểu Thanh, mà chỉ chia sẻ tình cảm với một phần nhỏ của số phận nàng.
Tác giả đặt quan điểm rằng Tiểu Thanh có hai khía cạnh: Vẻ đẹp được thể hiện qua bức tranh và tài năng văn chương được thể hiện qua tập thơ. Khi nàng qua đời, vẻ đẹp vẫn được chồng yêu thương, giữ gìn, trong khi tài năng văn chương của nàng bị lãng quên và đốt cháy. Sự mất mát về phần văn chương của nàng khiến tác giả cảm thương, nhưng đồng thời cũng là cảm thương cho số phận của văn chương nói chung, bao gồm cả thơ của ông. Bài thơ được sáng tác trên nền tảng của cảm xúc đầy sâu sắc này.
Bài thơ bắt đầu bằng việc tác giả chỉ tập trung vào một tờ giấy, đó là tờ giấy nháp thơ được dùng để gói quà còn sót lại. Tờ giấy đó biểu hiện cho phần đời văn chương của nàng, đã bị người chồng phế truất, và tác giả mới chú ý đến nó:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
(Trước cửa sổ, ta chỉ tập trung vào một tờ giấy.)
Trong phần thực: Tác giả đề cập đến một hiện thực đau lòng khi vẻ đẹp bề ngoài được người chồng quý mến và nâng niu, thậm chí sau khi nàng đã qua đời. Ngược lại, văn chương - biểu tượng của tài năng, trí tuệ và tình cảm cao quý - lại phải chịu số phận hẩm hiu, bị rẻ rúng. Điều này chỉ được giữ lại thông qua tờ giấy nháp sử dụng để gói quà còn sót lại (phần dư). Chúng ta hãy tập trung vào chi tiết tế nhị này trong câu chuyện về cuộc đời nàng Tiểu Thanh.
Nhan sắc: Bản chính - giữ lại, bản nháp - đốt cháy.
Văn chương: Bản chính - đốt cháy, bản nháp - giữ lại.
Và liên kết với hai câu thơ trong phần thực:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Vẻ đẹp có thần thái nên được quý mến cả sau khi chết.
Văn chương, thiếu số mệnh, phải nhờ vào phần còn sót lại.)
Đó là bi kịch đau lòng đối với thơ của nàng Tiểu Thanh. Đọc tiếp, chúng ta lại nhận thấy đó cũng là trò đùa trớ trêu đối với cả cuộc đời sáng tác của Nguyễn Du. Phần phê bình: Tác giả phân tích nguồn gốc khó hiểu của những oán hận, bất công tồn tại từ xưa đến nay, và chính ông cũng bị mắc kẹt trong một bi kịch oan trái kỳ lạ như vậy. Nhận ra rằng những oan hận như thế thường khó giải thích, ông không có cách nào khác ngoài việc chấp nhận sống chung với oan trái:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
(Sự oan hận từ lâu khó có cơ hội giải quyết,
Tôi chỉ có thể sống trong nỗi oan vận động kỳ lạ này.)
Phong vận ở đây biểu hiện cho vận động của thời gian, vận may hay còn được gọi là thời kỳ. Đây là vận mệnh do bối cảnh mang lại. Việc nhấn mạnh vào phong vận trong câu văn này chứng tỏ rằng: Nỗi oan kỳ lạ mà ông phải đối mặt là nỗi oan trong cuộc sống văn chương của ông, nơi mà thời kỳ đóng vai trò quan trọng.
Cuối cùng, ông viết:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Theo Nguyễn Du, khi thời vận thay đổi, có lẽ người đời sẽ hiểu được ông. Dự đoán rằng khoảng thời gian đó là: Tam bách dư niên hậu, tức là hơn ba trăm năm sau. Ông có lẽ nhận định rằng ba trăm năm là một khoảng thời gian đủ để thế hệ sau hiểu rõ ông theo quan niệm của thời đại.
Vậy tại sao ông lại đặt ra một khoảng thời gian hơn ba trăm năm? Ý niệm này có thể được phát triển từ tâm tư sâu sắc của tác giả, bắt đầu từ câu đầu tiên của bài thơ:
Tây Hồ bên bờ hoa uyển nay đã trở thành hoang phế.
Bài thơ gợi nhớ về những biến cố của thời đại đang diễn ra trước mắt nhà thơ. Một triều đại từng huy hoàng đã chấm dứt; những tàn tích của nó, tồn tại hơn ba trăm năm với kinh đô bên Hồ Tây (triều Lê), giờ đã bị hoang phế. Triều đại tiếp theo (triều Quang Trung) cũng nhanh chóng qua đi. Nguyễn Du dự đoán rằng: Triều đại hiện tại (triều Nguyễn Gia Long) có thể không kéo dài quá thời gian hơn ba trăm năm.
Nhìn vào tâm lý của Nguyễn Du, quan điểm về khoảng thời vận không phải lúc nào cũng giống như vậy. Trước đó một thời gian, trong bài Vị Hoàng doanh, ông viết:
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc.
(Chưa từng thấy đất nước nào tồn tại nghìn năm.)
Nước, theo quan niệm phong kiến, là triều đại của một dòng họ, không phải là một địa lý trên bản đồ như hiện nay. Nguyễn Du viết bài Vị Hoàng doanh khi nhìn thấy doanh trại của quân đội Tây Sơn bên sông Vị Hoàng. Khi ấy, quân Tây Sơn đang mạnh mẽ, và có thể ông lấy cảm hứng từ thực tế ở Trung Quốc. Tại Trung Quốc, triều đại lâu nhất tồn tại chỉ 901 năm (1122 - 221 trước công nguyên).
Khi viết bài Độc Tiểu Thanh ký, triều đại Tây Sơn mạnh mẽ đã không còn. Nguyễn Du có lẽ lấy cảm hứng từ thực tế ở Việt Nam. Từ khi giành độc lập đến thời điểm đó, vương triều tồn tại lâu nhất ở Việt Nam là triều Lê với chỉ 360 năm (1428 - 1788).
Lúc này, sự nghiệp văn chương của ông đang trải qua khó khăn. Tuy nhiên, ông tin rằng tư tưởng và văn đạo của mình là đúng. Mặc dù người ta chưa hiểu ông, nhưng khi thời vận thay đổi, có thể sẽ có người hiểu ông. Ông hy vọng vào điều đó. Ông chấp nhận sự cô độc của một người tiên phong nên chưa được người đời hiểu đúng. Ông tin rằng sự thay đổi là tất yếu, và khi đó sẽ có người hiểu ông. Có lẽ vì vậy, nhà thơ sử dụng niêm luật để thể hiện ý tưởng của mình.
Tổng hợp cả hai bài thơ Điệp tử thư trung và Độc Tiểu Thanh ký, cả hai đều phản ánh tâm trạng u uất, đau khổ về mệnh văn chương. Chúng thể hiện sự kiên định trong quan điểm sáng tác, nhưng mức độ có sự khác biệt: Trong Điệp tử thư trung, tác giả còn bế tắc và chưa tìm được lối thoát cho văn chương, thậm chí cam chịu chết nhiều lần để giữ vững văn đạo. Trái lại, ở Độc Tiểu Thanh ký, có vẻ như tác giả đã tìm thấy lối ra khi nói đến khoảng thời gian tam bách dư niên hậu.
Tâm tư của Nguyễn Du trong hai tác phẩm thơ Điệp tử thư trung và Độc Tiểu Thanh ký đều là những nguồn tư liệu quý giá, giúp chúng ta khám phá giai đoạn đầu của sự nghiệp Đoạn trường tân thanh.
"""""HẾT"""""--
Sau khi nắm bắt nội dung của bài Phân tích tâm sự của Nguyễn Du trong bài Độc Tiểu Thanh Kí, để rèn luyện kỹ năng phân tích và cảm nhận tác phẩm, bạn có thể tham khảo thêm: Điều ẩn sau tiếng khóc trong Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, Tragedy của phụ nữ dưới thời phong kiến qua Độc Tiểu Thanh kí, Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc, Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí để làm sáng tỏ quan điểm dưới đây: 'Bài thơ Độc... phong kiến', Nhận định về bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du.