Phân tích Thị Kính chăm sóc con cho Thị Mầu gồm 2 bài văn mẫu rất hay, giúp học sinh lớp 11 nâng cao kỹ năng về văn phân tích đánh giá truyện thơ.
Đoạn trích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu nói về lòng nhân từ của Thị Kính khi bị vu oan và vẫn nuôi con cho Thị Mầu. Dưới đây là 2 bài văn mẫu phân tích truyện thơ hay nhất.
Phân tích bài Thị Kính chăm sóc con cho Thị Mầu
Thơ Nôm là kho báu văn hóa của dân tộc, truyền tải cảm xúc phong phú và những suy nghĩ sâu sắc. Trích từ tác phẩm ‘Quan âm Thị Kính’, đoạn này thể hiện lòng nhân hậu của Thị Kính trong hoàn cảnh khó khăn.
Trong một ngôi làng, có một phụ nữ tên là Thị mầu, người hời hợt và ngu dại. Cô yêu chú bé Kính Tâm, tức là nàng Thị kính giả trai. Thị mầu vô tình mang thai với người hầu. Khi bị xét xử, cô đổ lỗi cho Kính Tâm, làm Thị Kính phải chịu bất công. Sau khi sinh con, Thị mầu trả đứa bé cho Kính Tâm.
'Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền... Trân trọng giá con ở đây mà về.'
Kính Tâm, một tu sĩ, sợ tiếng trẻ khóc. Anh bối rối và khó khăn trong quyết định về việc nuôi đứa bé. Nếu không nuôi, anh sẽ không an ủi được mình. Nhưng nuôi bé cũng không dễ dàng. Thị mầu không chịu trách nhiệm với đứa bé, nhưng Kính Tâm quyết tâm nhận nuôi.
'Cơ thiển kể đã khắt khe... Xót lòng măng sữa tăng trong tay.'
Tâm hồn của Kính Tâm bắt đầu bồn chồn. Dù bị chỉ trích, anh vẫn tin rằng hạnh phúc nằm ở việc làm điều tốt đẹp. Hành vi của anh gây nghi ngờ ở sư thầy, nhưng anh vẫn giữ lòng hiếu thảo.
‘Lần sau thầy mới hiểu
Dạy rằng: 'Như vậy thì thầy cũng nghi
Có vẻ như khác máu mới ru
…
Thầy nghe nói lại một số điều,
Khen rằng: “Cũng có chút từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Đã đem giọt máu tình thâm hòa vào’
Thực tế, nhìn vào hoàn cảnh của Kính tâm, chúng ta có thể hiểu và đồng cảm với số phận của anh. Nhưng đối với những người không biết sự thật chính xác, rõ ràng là đứa trẻ “không có quan hệ huyết thống”, bản thân mình không sinh nó ra, tại sao Kính tâm lại đồng ý nhận con của người đã gây ra sự bất công và xấu hổ cho bản thân mình? Tuy nhiên, sư thầy cảm động trước lòng hiếu thảo của Kính tâm và ý nghĩa cao quý trong hành động của chàng. Kính tâm cho biết ngay cả việc xây dựng một tòa tháp chín tầng cũng không sánh được với công ơn cứu mạng. Việc vị sư cụ ngưỡng mộ trái tim thánh thiện và cao thượng này chứng tỏ Kính tâm là người có lòng nhân hậu. Kính tâm bằng cả trái tim và tâm hồn, với sự tôn trọng và dịu dàng đã coi đứa bé là của mình, yêu thương và chăm sóc nó bằng cả trái tim, như một người mẹ nuôi con.
‘Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
…
Biết chăng một đứa thương đâu
Kính tâm dù biết “nuôi nhện” không phải là nuôi con của mình nhưng cô vẫn băn khoăn không biết con mình có thiếu thứ gì không. Kính tâm ngày đêm chăm sóc con, yêu thương và tìm mọi cách để nuôi dạy, mong đứa trẻ sẽ lớn lên thành người tốt. Cuộc sống quả nhiên là tàn khốc. Vẫn còn có tin đồn rằng việc làm này ở Kính tâm không thể đạt được quả báo. Nhưng hiện tại, sự thật vẫn bị chôn vùi, chỉ có đứa bé, Kính tâm và Thị Mầu là biết sự thật. Nuôi dạy một đứa trẻ không phải là điều dễ dàng nhưng khi được nghe tiếng cười trong trẻo của bé mỗi ngày, những lo lắng của Kính tâm dường như tan biến.
Phân tích Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Truyện thơ Nôm là kho tàng văn học của dân tộc Việt Nam có giá trị to lớn. Kho tàng này chứa đựng, cất giữ biết bao kinh nghiệm sống, phong tục tập quán và cả kiến thức lịch sử về cộng đồng. Với thể thơ lục bát giàu biểu cảm, ca từ giản dị và âm hưởng tha thiết, truyện thơ Nôm mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó có một câu chuyện kinh điển mà cho đến nay nó vẫn luôn đọng lại trong tâm trí của người đọc về chiều sâu tư tưởng mà tác phẩm gửi gắm. Đó là đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” trích “Quan Âm Thị Kính”.
Đoạn trích trên nói về tấm lòng nhân từ của Thị Kính khi bị Thị Mầu vu oan và đùn đẩy đứa con cho mình nhưng vì sinh mạng nhỏ bé, Thị Kính vẫn giữ lại đứa bé để nuôi nấng.
Vậy hà cớ gì lại dẫn đến cơ sự nghiệp duyên đó, ta cùng bắt đầu xâu chuỗi lại từ đầu câu chuyện. Thị Kính xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ, con của phú ông. Vào một đêm nọ, khi Thiện Sỹ ngồi đọc sách mà ngủ quên mất. Thị Kính thấy dưới cằm chồng mình có râu mọc ngược, nàng biết là điềm gở nên lấy kéo muốn cắt nó đi. Đúng lúc Thiện Sỹ bừng tỉnh thì hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát hại mình nên hô hoán làm to chuyện. Cha mẹ Thiện sĩ là Sùng ông, Sùng bà nổi giận đuổi Thị Kính về quê với cha mẹ đẻ. Thị Kính ôm nỗi oan trong lòng mà buồn tủi định quyên sinh, nhưng lại thương cha mẹ già không ai báo hiếu, phụ dưỡng, nàng cải trang thành nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi cả tên thành Kính Tâm.
Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dở có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đường tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay lại giật mình nghe tiếng khóc “tá” lên của trẻ em. Đường đường là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyên, Kính Tâm rối bời khó sử, bỏ rơi đứa bé thì cũng “chẳng đành”, mà nếu nhận đứa trẻ về chăm sóc thì lại hóa “tình chẳng ngay”. Thật gớm thay nàng Thị Mầu trơ trẽn, “trân trận” không biết hổ thẹn mà chối bỏ con mình. Biết rằng khi nhận đứa bé về nuôi sẽ bị lời đàm tiếu dị nghị nhưng thương cho trái tim nhỏ bé, Kính Tâm vẫn nhất quyết nhận nuôi:
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dở
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Tâm hồn Kính Tâm từ cõi “sơ thiền” nay cũng trở nên khắt khe, dậy sóng. “Cơ thiền” ở đây tức là chỉ tâm hồn đã đạt đến cảnh giới, tâm thanh tịnh không vướng bận chi. Vậy mà nay phải chịu oan Thị Mầu “khéo xui ra đứa” làm tổn hại đến thanh danh của mình. Thế nhưng vì quý trọng sinh mệnh “trong dạ hiếu sinh” mà Kính Tâm gạt bỏ đi hết lời gièm pha, cho dù người đời có bàn tán ra sao thì “phúc vẫn là làm phúc”. Dù chẳng mang công sinh thành như vẫn chịu “cù lao”, tức là chịu công ơn nuôi dưỡng. Thế nhưng việc làm đó của Kính Tâm cũng khiến Sư Cụ không khỏi sinh nghi:
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
Quả thật trong mắt nhìn của ta thì có hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con “khác máu” không phải do mình sinh ra thì hà cớ gì Kính Tâm lại nhận nuôi con của người đã làm nên nỗi oan ức tủi hổ cho mình suốt đời. Ấy thế mà sư phụ cũng bị cảm hóa với nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm thưa rằng dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh. Tấm lòng thiêng liêng cao đẹp đó đã nhận được lời khen từ sư Cụ, quả thật là người có lòng từ bi. Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mớm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu bao tử có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Ca dao xưa có câu nói ám chỉ việc tò vò nuôi con của người khác nhưng khi con lớn lên sẽ bỏ đi:
“Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?”
Trái tim của mẹ luôn ấm áp, dành cho đứa con nhỏ dù không phải máu mình. Dù không có sữa mẹ, nhưng Kính Tâm luôn lo lắng để đảm bảo đứa nhỏ không bị thiếu thốn. Ngày đêm, Kính Tâm chăm sóc, nuôi nấng đứa bé, hy vọng nó sẽ lớn lên thành người. Mặc cho những lời đàm tiếu, Kính Tâm vẫn kiên định trong việc nuôi dưỡng con mình. Chỉ có những người ở gần như 'Thị Mầu là ba' mới hiểu được tình cảm chân thành ấy.
Dù công việc nuôi con có thể là một trách nhiệm nặng nề, nhưng nó cũng là nguồn động viên cho tâm hồn. Khi cuộc sống trở nên cô đơn và khó khăn, tiếng ru của đứa trẻ cũng là một sự an ủi. ...
Tình yêu thương trong không gian linh thiêng của chùa hiện đã trở thành tiếng ru của Kính Tâm. Đó là minh chứng cho việc tình cha mẹ không phụ thuộc vào quan hệ máu thịt mà còn dựa trên tình thương từ bi. Kính Tâm không chỉ là người nuôi dưỡng mà còn là người cha thực sự của đứa bé. Hy vọng của Kính Tâm là con mình sẽ có một tương lai tươi sáng và hạnh phúc, tiếp tục truyền dạy những giá trị quý báu mà ông cha đã để lại.
Đoạn trích về Thị Kính nuôi con Thị Mầu là một minh chứng cho sức mạnh và lòng kiên nhẫn của phụ nữ trong xã hội xưa. Thông qua câu chuyện của họ, chúng ta nhận thức được những gánh nặng và bất công mà phụ nữ thường phải đối mặt. Đồng thời, đó cũng là một lời nhắc nhở về ý nghĩa của sự nhân từ và lòng từ bi trong cuộc sống. Dù gặp phải bao nhiêu khó khăn, chỉ cần lòng từ bi và lòng nhân ái, chúng ta có thể vượt qua mọi thử thách.