Phân Tích Chữ Người Tử Tù của Nguyễn Tuân tuyển chọn 3 gợi ý viết kèm 16 mẫu văn cực hay, giúp học sinh tự học để mở rộng kiến thức và biết cách phân tích tác phẩm cũng như thông điệp mà nhà văn muốn truyền đạt.
Phân Tích Bài Chữ Người Tử Tù là một đề tài học trong chương trình Ngữ Văn 10 Kết Nối Tri Thức Tập 1 và Ngữ Văn 11 Cánh Diều Tập 1. Do đó, TOP 16 bài văn phân tích Chữ Người Tử Tù dưới đây sẽ là tài liệu hữu ích với các mẫu ngắn gọn và đầy đủ cho học sinh tham khảo và lựa chọn theo khả năng viết của mình. Các bạn cũng có thể xem thêm: phân tích nhân vật Huấn Cao, kết bài Chữ Người Tử Tù.
Dàn Ý Phân Tích Truyện Chữ Người Tử Tù
Dàn Ý Số 1
I. Bắt Đầu
- Giới Thiệu Ngắn Gọn về Tác Giả Nguyễn Tuân: Một Tài Năng Văn Học Độc Đáo, Có Vị Trí Quan Trọng trong Văn Học Hiện Đại của Việt Nam
- Tổng Quan về Tác Phẩm Một Truyện Ngắn Tiêu Biểu Cho Phong Cách Tài Hoa Nghệ Sĩ của Ông, Được Xuất Bản trong Tập Vang Bóng Một Thời (1940)
II. Nội Dung
1. Tình Huống Trong Truyện
- Không Gian: Nhà Tù. Đây Không Phải Là Nơi Dành Cho Những Cuộc Gặp Gỡ.
- Thời Gian: Những Ngày Cuối Cùng Trước Khi Ra Pháp Trường Của Huấn Cao.
⇒ Không Gian Và Thời Gian Đóng Góp vào Sự Kịch Tính của Tình Huống.
- Sự Gặp Gỡ Khác Thường Của Hai Con Người Khác Thường:
⇒ Cuộc Hội Ngộ Diễn Ra Trong Bầu Không Khí Căng Thẳng của Nhà Tù.
2. Nhân Vật Huấn Cao
a. Một Nghệ Sĩ Tài Năng
- Mọi Người Ở Khắp Các Vùng Tỉnh Sơn Đều Khen Ngợi Huấn Cao Là Người:
- Có Tài Viết Chữ “Rất Nhanh và Rất Đẹp”.
- “Chữ Ông Huấn Cao Đẹp Lắm, Vuông Lắm … Có Được Chữ Ông Huấn Mà Treo Là Có Một Báu Vật Ở Trên Đời”.
b. Một Con Người Có Khí Phách Hiên Ngang Bất Khuất
- Là Lãnh Đạo Của Phong Trào Khởi Nghĩa Chống Lại Triều Đình.
- Ngay Khi Bước Chân Vào Nhà Ngục: Bình Tĩnh Đứng Thẳng Trên Thang Gông:
⇒ Tinh Thần Kiêng Trì, Đạo Đức Của Người Tuân Thủ Lối Nho
- Khi Được Quản Ngục Phục Vụ Đặc Biệt: “Bình Thản Nhận Rượu Thịt” Như “Việc Vẫn Thực Hiện Trong Tâm Trạng Bình Thường”
⇒ Thái Độ Tự Do, Thoải Mái, Coi Nhẹ Sự Chết
- Trả Lời Quản Ngục Bằng Thái Độ Khinh Miệt: “Ngươi Hỏi Ta Muốn Gì ... Vào Đây”
⇒ Không Chịu Khuất Phục Trước Sức Mạnh Bất Công.
⇒ Tinh Thần của Một Anh Hùng.
c. Một Tâm Hồn, Một Thiên Lương Cao Quý
- Tâm Hồn Trong Sáng, Cao Đẹp: “Không Vì Vàng Ngọc Hay Quyền Thế Mà Bóp Mình Viết Câu Đối Bao Giờ” ⇒ Trọng Trách, Khinh Thường Lợi Ích Cá Nhân, Chỉ Dành Cho Những Ai Tri Kỷ.
- Trước Khi Biết Được Tấm Lòng Của Quản Ngục: Xem Anh Ta Là Kẻ Tiểu Nhân
- Khi Hiểu Được Tấm Lòng “Biệt Nhỡn Liên Tài” Của Quản Ngục: Huấn Cao Chấp Nhận Lời Mời Viết Chữ
⇒ Chỉ Dành Cho Những Ai Biết Trân Trọng Tài Năng và Quý Giá Đẹp Đẽ.
- Câu Nói của Huấn Cao Với Quản Ngục: “Thiếu Chút Nữa ... Trong Thiên Hạ”
⇒ Sự Tôn Trọng Đối Với Những Ai Có Sở Thích Cao Quý, Có Nhân Cách Lành Mạnh.
⇒ Huấn Cao Là Một Anh Hùng - Nghệ Sĩ, Một Thiên Lương Trong Sáng.
3. Nhân Vật Quản Ngục
a. Tấm Lòng Biệt Liên Tài
- Trong Những Ngày Huấn Cao Ở Trại Giam, Quản Ngục Luôn Thể Hiện Thái Độ Nghiêm Kính và Khiêm Nhường
- Dũng Cảm Đối Xử Đặc Biệt Với Huấn Cao
- Cảm Thấy Tiếc Nuối Khi Biết Huấn Cao Sắp Phải Rời Bỏ Thế Gian: “Bấy Nhiêu ... Trong Vũ Trụ”
b. Khao Khát và Trân Trọng Cái Đẹp
- Khao Khát Cái Đẹp: Ước Ao của Ông Là “Được Treo Ở Nhà Riêng Một Đôi Câu Đối” Viết Bởi Chính Tay Huấn Cao.
- Lo Lắng Nếu Không Kịp Xin Chữ Ông Huấn Trước Khi Bị Hành Hình, Thì “Ân Hận Suốt Đời Mất”
4. Hình Ảnh Cho Chữ
- Thời Gian: Đêm Trước Khi Huấn Cao Ra Pháp Trường Chịu Án Chém, Khi Chỉ Còn “Vẳng Có Tiếng Mõ Trên Vọng Canh”
- Nơi: Trại Giam Tỉnh Sơn
- Không Gian: Buồng Tối Chật Chội, Ẩm Ướt...
- Đây Là 'Cảnh Tượng Chưa Từng Có' :
- Thân Phận và Hành Động Của Người Cho Chữ và Nhận Chữ Đặc Biệt:
- Xây Dựng Các Cặp Phạm Trù Đối Lập Nhau
- Chi Tiết Quản Ngục Cúi Đầu Vái Lạy Người Tử Tù Huấn Cao: Sự Thức Tỉnh Trước Cái Đẹp, Quản Ngục Đã Thoát Ra Khỏi Những Cái Tầm Thường, Ràng Buộc Để Vươn Tới Cái Cao Đẹp.
⇒ Toàn Bộ Cảnh Cho Chữ Là Bài Ca Tôn Vinh Cái Đẹp, Cái Thiện, Cái Thiên Lương Của Con Người Trong Hoàn Cảnh Tối Tăm Ngục Tù Bậc Nhất.
III. Kết Bài
- Khẳng Định Những Nét Nghệ Thuật Đặc Sắc Làm Nên Thành Công Của Tác Phẩm
- Chữ Người Tử Tù Là Một Văn Phẩm Xuất Sắc Đạt “Gần Đến Sự Toàn Thiện, Toàn Mĩ” (Vũ Ngọc Phan)
Dàn Ý Số 2
1. Mở Đầu
Dẫn Dắt và Giới Thiệu Về Tác Phẩm.
'Chữ Người Tử Tù' của Nguyễn Tuân Được Trích Từ Tập 'Vang Bóng Một Thời'- Tập Truyện Được Đánh Giá Là 'Những Nén Tâm Hương Nguyện Cầu Cho Cái Đẹp Việt Nam'. Truyện Kể Về Nhân Vật Huấn Cao Được Xây Dựng Dựa Trên Nguyên Mẫu Cao Bá Quát- Lãnh Tụ Cuộc Khởi Nghĩa Mĩ Lương, Một Trí Thức Phong Kiến Nổi Tiếng Tài Hoa, Có Lối Sống Thanh Cao.
2. Nội Dung
a) Tâm Hồn Của Huấn Cao
* Giai Đoạn Nhập Ngục
- Huấn Cao Bước Vào Ngục Với Dáng Vẻ Của Một Tù Nhân Nhưng Trong Mắt Ngục Quan, Anh Là Biểu Tượng Của Tài Năng.
- Quản Ngục Tiếp Đón Huấn Cao Với Ánh Nhìn Lành Mạnh, Thái Độ Kính Phục. Đối Với Quản Ngục, Việc Có Được Chữ Huấn Cao Trang Trí Trong Nhà Tương Tự Như Sở Hữu Một Kho Báu Trên Trời.
Huấn Cao, Với Danh Tiếng Và Tài Năng, Phát Tán Ánh Sáng Vào Tù Mới, Anh Là Nghệ Sĩ Của Nghệ Thuật Thư Pháp. Thái Độ Của Quản Ngục Và Huấn Cao Phản Ánh Tình Yêu Mến Của Nguyễn Tuân Với Vẻ Đẹp Và Sự Trân Trọng Của Nhà Văn Đối Với Di Sản Văn Hóa Dân Tộc.
* Giai Đoạn Ở Trong Ngục
- Huấn Cao Chấp Nhận Sự Đối Xử Đặc Biệt Của Ngục Quan Một Cách Thản Nhiên, Xem Đó Như Một Phần Của Cuộc Sống Hằng Ngày.
- Huấn Cao Còn Trả Lời Ngục Quan Bằng Những Lời Coi Thường Và Kiêu Ngạo.
- Thái Độ Của Huấn Cao Đối Với Ngục Quan Là Thái Độ Của Một Người Có Quyền Lực Với Sức Mạnh. Trong Tâm Trí
- Của Huấn Cao, Ngục Quan Là Biểu Tượng Của Sự Xấu Xí, Độc Ác, Của Sức Mạnh Và Bạo Lực.
- Thái Độ Kính Phục, Nhẫn Nhục Của Ngục Quan Trước Câu Nói Lễ Phép 'Xin Lĩnh Ý' Đã Tạo Ra Hình Ảnh Của Người Tù Kỳ Dị, Uy Nghi. Huấn Cao Hiện Ra Với Dáng Vẻ Của Một Anh Hùng, Với Khí Phách Hiên Ngang.
* Giai Đoạn Cho Chữ
- Đối Với Huấn Cao, Cho Chữ Không Chỉ Là Hành Động Đền Đáp Tình Cảm, Mà Còn Là Sự Nâng Đỡ, Bảo Vệ Ánh Sáng Của Thiên Lương.
- Nhân Vật Huấn Cao Được Miêu Tả Bằng Góc Nhìn Lãng Mạn, Với Phong Cách Văn Hóa Hoá. Nhờ Vậy, Anh Ta Mang Vẻ Đẹp Hoàn Hảo, Tinh Kỳ.
- Thân Phận Của Quản Ngục Thực Sự Ẩn Chứa Một Tấm Lòng Sâu Lắng, Khao Khát Cái Đẹp, Tiếp Cận, Bảo Tồn, Và Bảo Vệ Nó.
b) Ngục Quan
* Cách Đối Xử Với Huấn Cao
- Ngẫm Lại, Quản Ngục Nhận Ra Rằng Người Mà Ông Ngưỡng Mộ, Người Cầm Trong Tay Những Bí Mật Của Chữ Viết, Lại Chính Là Người Tù Ông Đang Giữ. Tuy Nhiên, Ông Vẫn Quyết Định Đối Xử Với Huấn Cao Một Cách Tôn Trọng, Thể Hiện Một Tấm Lòng Biệt Liên Tài.
- Mặc Dù Bị Hiểu Lầm Bởi Huấn Cao, Quản Ngục Vẫn Giữ Vững Thái Độ Kính Trọng Và Lễ Phép.
- Khi Nghe Tin Huấn Cao Sắp Bị Hành Hình, Quản Ngục Lo Lắng, Sợ Rằng Nếu Không Nhận Được Chữ Huấn Cao, Ông Sẽ Hối Tiếc Suốt Đời.
- Đằng Sau Vẻ Bề Ngoài Của Một Người Quản Ngục Là Một Tâm Hồn Yêu Cầu, Say Mê Và Giữ Gìn Cái Đẹp.
* Trong Cảnh Cho Chữ
- Quản Ngục Khấm Núm Cất Những Đồng Tiền Kẽm Đánh Dấu Ô Chữ Đặt Trên Phiến Lụa Sáng Bóng.
- Ngạc Nhiên Trước Lời Khuyên Của Huấn Cao, Ngục Quan Bày Tỏ Sự Cảm Động, Lắc Đầu Vào Hành Lễ, Nói Một Câu Mà Dòng Nước Mắt Rỉ Ra: 'Người Say Mê Này Kính Ngữ'.
- Có Những Lần Cúi Đầu Làm Cho Con Người Trở Nên Hèn Hạ, Có Những Lần Vái Lạy Làm Cho Con Người Điều Đãng. Nhưng Cũng Có Những Lần Cúi Đầu Làm Cho Con Người Thêm Cao Cả, Thêm Lớn Lao, Lẫm Liệt Hơn. Đó Chính Là Cái Cúi Đầu Trước Cái Đẹp, Cái Tài, Cái Thiên Lương. Chính Cao Chu Thuần, Nguyên Mẫu Của Nhân Vật Huấn Cao Cũng Có Một Câu Thơ Thật Đẹp: “Nhất Sinh Đê Thủ Bái Hoa Mai” (Một Đời Chỉ Biết Cúi Đầu Vái Lạy Hoa Mai). Cái Cúi Đầu Của Thầy Quản Ngục Vái Lạy Huấn Cao Chính Là Cái Cúi Đầu Của Cao Bá Quát Trước Hoa Mai Vậy.
- Tư Thế Và Tâm Thế Của Quản Ngục Khi Nhận Chữ Và Lắng Nghe Lời Khuyên Của Huấn Cao Đều Thể Hiện Thái Độ Thành Kính. Sự Khấm Núm Và Cúi Đầu Không Phải Không Thể Hiện Sự Ủy Mị, Hèn Nhát, Yếu Kém Mà Ngược Lại Nó Làm Sáng Lên Vẻ Đẹp Nhân Cách Của Một Tâm Hồn Thánh Thiện, Sự Thành Kính, Sùng Tín Trước Cái Đẹp, Khí Phách Và Tài Hoa Giống Cái Cúi Đầu Của Cao Bá Quát Trước Hoa Mai.
- Nhân Vật Ngục Quan Là Nơi Nguyễn Tuân Gửi Gắm Quan Niệm Nhân Sinh Sâu Sắc: Ẩn Sau Trong Tâm Hồn Con Người Đều Ẩn Chứa Một Tâm Hồn Nghệ Sĩ, Yêu Cái Đẹp, Khao Khát Cái Đẹp. Hãy Nhìn Thật Sâu Để Nắm Bắt Ánh Sáng Của Thiên Lương Vì Đôi Khi Trong Điều Kiện Của Cái Xấu, Cái Ác Thì Cái Đẹp Không Những Không Lụi Tàn Mà Còn Có Sức Mạnh Đẩy Lùi Cái Xấu, Cái Ác.
c) Nghệ Thuật Đặc Sắc
- Tình Huống Truyện Độc Đáo Với Những Sự Kiện Kịch Tính, Phong Phú Ý Nghĩa.
- Biện Pháp Lãng Mạn Được Phát Huy Cao Độ Để Tôn Lên Vẻ Đẹp Lí Tưởng.
- Ngôn Ngữ, Văn Phong Đặc Trưng, Vừa Cổ Kính Vừa Hiện Đại Làm Sống Dậy Trong Lòng Người Đọc Không Khí Thiêng Liêng, Vang Bóng.
3. Kết Bài
Nêu Cảm Nghĩ Của Bản Thân.
Thông qua câu chuyện về người bị tử tù, tác giả đã khẳng định sự bất tử của cái đẹp, tôn vinh những giá trị chân thiện và tinh túy, và rõ ràng bày tỏ tấm lòng chân thành với đất nước. Nhà văn cũng thể hiện quan điểm về thẩm mỹ tiến bộ: cái đẹp luôn đi đôi với cái thiện; và quan điểm sâu sắc về nhân sinh: niềm tin vào sự thiên lương của con người.
.......................
Xem thêm: Dàn Ý Phân Tích 'Chữ Người Tử Tù'
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích 'Chữ Người Tử Tù'
Phân Tích 'Chữ Người Tử Tù' của Nguyễn Tuân một cách súc tích
Phân tích 'Chữ Người Tử Tù' - Mẫu 1
Nguyễn Tuân được đánh giá là 'một nhà văn vĩ đại, một nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm cái đẹp', ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với văn học Việt Nam. Trước cuộc cách mạng, ông thoát khỏi hiện thực, trở về một thời hoàng kim, tập 'Vang Bóng Một Thời' là biểu tượng cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó, không thể không nhắc đến 'Chữ Người Tử Tù', với niềm đam mê viết chữ tinh tế truyền thống.
'Chữ Người Tử Tù' được in trong tập 'Vang Bóng Một Thời' xuất bản năm 1940, khi xuất hiện trên tạp chí 'Tao Đàn' có tên 'Dòng Chữ Cuối Cùng', sau đó được in thành sách dưới tựa đề 'Chữ Người Tử Tù'. Tác phẩm truyền đạt đầy đủ tinh thần của tác giả và giá trị nhân văn của nó. 'Chữ' là biểu hiện của cái đẹp, của sức sáng tạo tạo nên cái đẹp, cần được tôn vinh và ca ngợi. 'Người Tử Tù' là biểu tượng của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ tiêu đề đã chứa đựng những mâu thuẫn, kích thích tình hình truyện trở nên gai góc, khiến người đọc tò mò. Điều này làm nổi bật chủ đề tư duy của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc sống.
Tác phẩm có những tình huống gặp gỡ độc đáo, lạ, diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của Huấn Cao, một nhân vật mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không được công nhận. Vị trí xã hội của hai nhân vật cũng đối lập. Huấn Cao là kẻ định đoạt, muốn lật đổ trật tự xã hội hiện tại. Trong khi đó, người quản ngục đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho pháp luật, trật tự xã hội hiện tại. Nhưng trong mặt trận nghệ thuật, vị trí của họ hoàn toàn đảo lộn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu cái đẹp và sáng tạo ra cái đẹp. Đó là một mối quan hệ chặt chẽ giữa họ. Tình huống truyện độc đáo giúp phát triển logic, hợp lý đẩy lên đến cao trào, làm nổi bật tính cách của nhân vật và chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng: 'ai mà không biết vùng tỉnh Sơn vẫn khen ngợi tài viết chữ của ông, rất nhanh và rất đẹp'. Rufame của ông lan tỏa, tạo ra khát khao và sự tôn trọng từ mọi người. Có được chữ của Huấn Cao là điều mà bất cứ ai cũng mong muốn, được treo bức chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Tài năng của Huấn Cao không chỉ giới hạn ở mức độ bình thường mà đã đạt đến mức độ phi thường, vượt ra khỏi cái bình thường.
Không chỉ có tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của tâm hồn trong sáng: 'Tính ông từ trước tới giờ rất cao thượng, ngoại trừ việc tôn kính bạn bè, ông rất ít khi viết ra những câu chữ'. 'Cao thượng' ở đây có thể hiểu là sự tự tin về tài năng viết chữ, vì ông nhận thức được giá trị của tài năng và luôn tôn trọng từng chữ mình viết. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế ban cho bản thân, chỉ dùng những chữ ấy để tặng cho những tấm lòng trong thế gian. Trong suốt cuộc đời, ông không bao giờ viết chữ vì quyền lợi cá nhân: 'Ta không bao giờ viết câu chữ vì vàng bạc hay quyền thế'. Đặc biệt, lòng nhân ái ấy còn thể hiện trong việc ông cho phép viên quản ngục sử dụng chữ: 'Ta nhận ra lòng trung kiên liên kết của các ngươi. Nếu không phải vì sự quý trọng này, có thể ta đã mất đi một tấm lòng trong thế gian', lòng nhân ái của Huấn Cao với những con người đánh giá cao cái đẹp, cái tài.
Ở Huấn Cao, ta cũng thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có tinh thần cao cả, kiêu hãnh hơn người. Ông là người thông thạo văn chương nhưng không bị ràng buộc bởi quy củ, dám dẫn đầu một cuộc phản đối lớn, đối đầu với chính quyền. Khi bị bắt, ông vẫn giữ tư thế kiêu hãnh, trước lời đe dọa của lính gác, Huấn Cao không chút sợ hãi, coi thường, thậm chí còn lạnh lùng hạ gò má xuống đất… Khi viên quản ngục đến thăm ông một cách ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều đó: 'Ngươi hỏi ta muốn cái gì, ta chỉ muốn một điều, là nhà ngươi không bao giờ đặt chân vào đây'. Khi nhận tin tức xấu (sắp bị chém vào ngày mai), Huấn Cao bình thản, mỉm cười.
Và đẹp nhất là cảnh tạo chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hiệp nhất và tỏa sáng. Trên tờ giấy trắng không một vết thư, chữ Huấn Cao 'vuông vắn' phản ánh khát vọng, sức mạnh của một con người quyết đoán. Ông không để ý đến những điều xung quanh, chỉ tập trung vào việc sáng tạo ra những nét chữ tuyệt vời. Khi viên quản ngục yêu cầu sử dụng chữ, Huấn Cao cũng hiểu được lòng tốt của quản ngục, trong những phút cuối đời đã viết chữ tặng cho viên quản ngục, dành tặng cho lòng biết nhường của người.
Viên quản ngục là người mang số phận bi kịch. Ông có tính cách hiền lành, biết trân trọng những người trung thực, nhưng lại phải sống trong môi trường tù đầy tàn bạo, gian lận. Nhân cách cao quý của ông đối lập với hoàn cảnh tù tội, bị hạn chế. Ông nhận thức về thảm kịch của mình, bi kịch của sự lạc lối, nhầm lẫn nghề nghiệp. Nhưng mặc dù vậy, trong nhà tù vẫn giữ được tâm hồn cao quý, tâm hồn của một nghệ sĩ. Ông ao ước có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không được viết chữ của ông Huấn sẽ là một sự tiếc nuối. Nhưng việc nhận chữ của Huấn Cao là một điều vô cùng khó khăn: ông là người quản ngục, nếu có thái độ biến nhường hoặc yêu cầu viết chữ của kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp rắc rối. Hơn nữa, Huấn Cao thường không cho phép ai viết chữ. Trong những ngày cuối cùng của mình, Huấn Cao có hành động bất thường, đối xử tôn trọng với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tinh thần của viên quản ngục được thể hiện rõ nhất ở việc nhận chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã vượt qua mọi khó khăn để tổ chức một buổi xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba tính cách cao quý chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khấm khá đặt mỗi đồng xu thép vào ô chữ, với thái độ kính trọng, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước lời giải thích của Huấn Cao, viên quản ngục cúi đầu kính trọng, 'tôi kính tiến kẻ nào say mê đẹp'.
Tác phẩm đã tạo ra những tình huống truyện độc đáo. Với nghệ thuật tạo hình nhân vật sắc nét, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của tâm hồn trong sáng, kiêu hãnh và tôn trọng tài năng. Đồng thời, tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã khơi lên không khí cổ điển, nay chỉ còn lại vẻ đẹp. Nét văn chương chậm rãi, dễ chịu, đóng góp vào việc tái hiện lại không khí cổ điển của tác phẩm. Bản văn sử dụng kỹ thuật đối lập tương phản một cách thành công, rất tài năng.
Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện lòng tin vào chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương trước sự xấu xa, tàn bạo. Đồng thời, ông cũng thể hiện lòng trọng trách với những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó tỏa sáng tình yêu quê hương. Bằng cách xây dựng tình huống đặc biệt, sử dụng ngôn từ tài hoa, tác phẩm đã đạt được thành công.
Phân tích về Chữ người tử tù - Phiên bản 2
Nguyễn Tuân là một nhà văn vô cùng tài năng, là bậc thầy của truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia thành hai giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Ở giai đoạn trước, ông được biết đến như là một nhà văn 'duy mĩ' yêu thích cái đẹp và coi nó là điều cao quý nhất trong con người. 'Vang bóng một thời' là tập truyện tiêu biểu của ông, thể hiện tình yêu với cái đẹp của một thời xa xưa với những phong tục, thú vui tinh thần tươi đẹp trong đó có sở thích chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn 'Chữ người tử tù'. Hai nhân vật này đều có tính cách cao quý, tinh khiết và tạo chữ độc đáo, làm nổi bật tài năng văn học và tư tưởng của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao trong câu chuyện là một nhà văn có tài viết chữ tuyệt vời nhưng bị kết án tử hình vì đấu tranh chống lại chính quyền. Trước khi bị xử án, ông gặp một viên quản ngục và một thầy thơ yêu mến nghệ thuật chữ, trân trọng tài năng của Huấn Cao nên đã đối xử tử tế với tù nhân, hy vọng được ông cho chữ. Hiểu được lòng tốt đẹp ấy, người tử tù thiên lương đã cho chữ trong tình thế khó khăn chưa từng có. Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa hai con người đối lập: một bên là Huấn Cao có tài viết chữ xuất sắc nhưng đấu tranh với chính quyền, một bên là viên quản ngục đại diện cho bộ máy bảo vệ trật tự xã hội phong kiến nhưng lại mong muốn ánh sáng của chữ nghĩa. Hai nhân vật này có tương phản trong xã hội nhưng lại có mối liên kết vững chắc qua nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào tình huống đối lập tạo ra sự căng thẳng cho câu chuyện và việc sáng tạo chữ đã mở ra giải pháp.
Huấn Cao là một nhà văn tài ba, mang vẻ uy nghiêm, khí phách và có lòng nhân ái được thể hiện rõ trong tác phẩm. Đầu tiên, qua cuộc trò chuyện giữa viên quản ngục và thầy thơ. Tài năng viết chữ tuyệt vời của ông khiến người dân vùng Sơn ca ngợi khen, làm cho viên quản ngục đau đáu muốn có chữ Huấn Cao để treo ở nhà vì 'chữ của ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm'. Nguyễn Tuân đã mô tả ước nguyện của viên quản ngục để làm nổi bật tài năng nghệ thuật mà nhiều người khao khát. Không chỉ thế, Huấn Cao còn là tình nguyện viên dẫn đầu cuộc nổi dậy chống lại chính phủ vì không hài lòng với chính sách cai trị, là người không sợ những lời đe dọa từ quân lính mà vẫn tự do, kiêu hãnh nhận trận mưa rơi, sẵn lòng uống rượu và ăn thịt mặc cho số phận mình sắp chịu án tử hình. Có bao nhiêu người trước khi qua đời vẫn giữ được phong thái và sự kiêu hãnh như vậy? Ông biểu hiện sự khinh thường với viên quản ngục khi nói: 'Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng bao giờ bước chân vào đây', đây thực sự là một câu nói khiến người khác phải trầm trồ. Qua suy nghĩ của viên quản ngục, Huấn Cao được miêu tả như một tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ gây rối và chống đối chính quyền. Tuy nhiên, ông vẫn tự tin đón nhận tử hình mà không hề khuất phục. Huấn Cao không bao giờ chấp nhận sự áp đặt từ cường quyền và bạo lực. Ông là một nhân vật hiếm có với sự kết hợp giữa tài năng nghệ sĩ và lòng anh hùng, tạo nên nét độc đáo không thể nhầm lẫn với bất kỳ nhân vật nào khác trong 'Vang bóng một thời'. Ông có một lòng thiên lương trong sáng, không phải ai cũng được ông cho chữ, chỉ có ba người bạn tri kỉ. Nhưng khi hiểu được lòng tốt của viên quản ngục, ông mỉm cười, nhắc thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để trả ơn: 'Về bảo với chủ nhà của ngươi, tối nay, khi lính canh về trại nghỉ, thì mang, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ'. Cho chữ thay vì viết chữ, nghe như lời truyền bá từ bề trên xuống cho bề dưới. Ông khẳng định: 'Chữ rất quý. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền lực mà bao giờ ép mình viết câu đối.' Huấn Cao không để ý đến vinh quang và tài vị, cũng không sợ cường quyền khiến mình phải làm điều mình không muốn. Dù bị giam cầm trong nhà lao, tâm hồn ông vẫn tự do, không bị kẹt lại.
Ông Huấn quyết định cho chữ trong tình huống 'chưa từng thấy' như Nguyễn Tuân đã nhận xét. Việc cho chữ là một nghệ thuật đặc biệt, được mô tả một cách tài tình. Thời gian đó là đêm cuối cùng của một người tù trước khi bước ra khỏi pháp trường. Quang cảnh cho chữ đầy lạ lẫm và đẹp đẽ, như một giấc mơ. Lạ bởi trước đây, người ta thường cho chữ trong những căn phòng sạch sẽ, ánh đèn lung linh, mùi thơm của hương trầm. Nhưng ở đây, tại nhà lao, không có gì ngoài 'Buồng tối chật chội, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất đầy phân chuột, phân gián', chỉ có ánh đuốc đỏ rực sáng. Phòng giam ba người nhưng chỉ có một người hoạt động. Thầy thơ cầm chậu mực run run. Viên quản ngục nâng tấm lụa trắng trên mảnh ván. Huấn Cao 'cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang tô nét chữ trên tấm lụa', từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra. 'Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng'. Ta thấy sự đối lập giữa một người tù và hai người tự do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao tự do và đối lập, viên quản ngục và thầy thơ lại run run. Cái 'run run' của viên quản ngục không phải là sự thất vọng mà là sự trọng trách. Ông cúi đầu trước cái đẹp, một hành động đáng trân trọng. Tư thế và tâm thế bị hoán đổi hoàn toàn. Người có quyền không có uy, người tù lại giữ quyền và sự tự do. Người phải giáo dục lại tội phạm nhưng lại được tội phạm giáo dục lại nhân cách.
Thấu hiểu qua tác phẩm 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân cho thấy ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Thứ nhất là thái độ hủy hoại, được thể hiện qua những lính ác, vô lễ với Huấn Cao và bạn tù của ông. Họ là những con người tàn bạo, lạc hậu, thích đánh đấm mà không suy nghĩ. Thứ hai là thái độ yêu mến cái đẹp và quý trọng người tài, được thể hiện qua hành động của viên quản ngục và thầy thơ. Họ luôn muốn biết những người tài và sẵn lòng đối diện với nguy hiểm để có được chữ của Huấn Cao. Thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của Huấn Cao, một nhà văn tài ba. Ông để lại cho tác giả sự trân trọng và tiếc nuối. Huấn Cao là một biểu tượng hiếm hoi trong trang viết của Nguyễn Tuân, một hiền tài bị đánh mất cơ hội.
Trong tác phẩm 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân thể hiện ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Thứ nhất là thái độ phá hoại, được mô tả qua những lính tàn bạo đối xử với Huấn Cao và bạn tù. Thứ hai là sự yêu mến cái đẹp và trân trọng người tài, thể hiện qua việc viên quản ngục và thầy thơ luôn mong muốn có được chữ của Huấn Cao. Thứ ba là sự cao thượng và rộng lượng của Huấn Cao, một biểu tượng tài năng bị bỏ lỡ.
Trong tác phẩm 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân chỉ ra ba thái độ của con người đối với cái đẹp. Thứ nhất là thái độ hủy hoại, thể hiện qua những lính tàn bạo và mệnh lệnh của quan trên. Thứ hai là sự yêu mến cái đẹp và quý trọng người tài, được thể hiện qua viên quản ngục và thầy thơ. Thứ ba là sự cao thượng của Huấn Cao, một hiền tài bị đánh mất cơ hội.
Tác phẩm này thể hiện tư tưởng về nghệ thuật và nhân phẩm con người của tác giả. Nhân cách đẹp là sự kết hợp giữa tài năng và tâm hồn, và cái đẹp luôn phải gắn liền với điều thiện. Cái đẹp không chỉ tồn tại trong những nơi thanh tao, sạch sẽ, mà còn trong môi trường xấu xa. Chỉ có cái đẹp mới có thể làm cho tâm hồn con người trở nên tốt hơn, cao quý hơn.
Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản, bút pháp sắc sảo đã khắc họa chi tiết con người và cảnh vật, gây ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Tuân yêu mến và trân trọng tài năng, cái đẹp, và từ đó viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” với sự hiện thân của hai con người có nhân cách cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục.
Phân tích Chữ người tử tù - Mẫu 3
Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng nói: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Nguyễn Tuân sớm thấm nhuần tư tưởng đó và cả cuộc đời ông là một hành trình tìm kiếm cái đẹp thanh cao, chuẩn mực. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông khắc hoạ chân dung vẻ toàn mỹ, luôn toả sáng và trường tồn với thời gian.
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ông tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống để thổi hồn vào các tác phẩm của mình. Tác phẩm Chữ người tử tù đã thành công trong việc khắc hoạ chân dung Huấn Cao, một con người có nhân cách cao quý và tài năng, không bao giờ gục ngã trước khó khăn.
Thành công của một truyện ngắn đến từ tình huống đặc sắc, là chìa khóa thúc đẩy cốt truyện cao trào. Chữ người tử tù cũng thể hiện điều này, khi Nguyễn Tuân đặt nhân vật vào tình thế phức tạp, gặp gỡ giữa hai thế lực đối lập. Cuộc hội ngộ đầy kịch tính, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương thắng thế trước sự tàn bạo của xã hội.
Trong Chữ người tử tù, nhân vật chính diện đại diện cho cái đẹp thanh cao, không bị tác động bởi hoàn cảnh xã hội dơ bẩn. Huấn Cao là hình tượng anh hùng kiên cường, lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho công bằng. Nguyễn Tuân sáng tạo hình ảnh này dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát, một người nghệ sĩ tài hoa, quả cảm.
Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của Huấn Cao thông qua nhiều góc nhìn, thể hiện sự cao quý, tài hoa của một người anh hùng. Huấn Cao được miêu tả như một nghệ sĩ tài năng, được ngưỡng mộ khắp nơi. Ông thể hiện sự phi thường thông qua những hành động và sự kiện trong tác phẩm.
Huấn Cao là một anh hùng kiên cường, không sợ hãi trước cường quyền, luôn giữ thái độ bình tĩnh, dũng cảm trong mọi hoàn cảnh. Ông không bao giờ bán chữ vì danh lợi, mà chỉ viết để truyền đạt tâm hồn cao thượng của mình.
Nguyễn Tuân còn miêu tả sự nhân từ và tâm hồn cao quý của Huấn Cao, người không chỉ tài hoa mà còn có lòng nhân ái. Tấm lòng của ông tràn đầy lòng từ bi, không muốn phụ lòng người.
Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn đưa vào câu chuyện một nhân vật khác là viên quản ngục, một người yêu thích vẻ đẹp, tâm hồn nghệ sĩ nhưng lại lạc vào chốn bẩn thỉu, dung tục. Tác giả đã tạo ra hai nhân vật chính diện song song, phản ánh cho nhau vẻ đẹp tinh thần tao nhã. Viên quản ngục có vẻ như chọn sai nghề, ông là “một giọng hát trong trẻo vang lên trong một bản nhạc mà luật pháp đầy rối ren”. Theo cách mà tác giả mô tả, 'Thượng đế đôi khi cũng đùa giỡn, đem những thứ thuần khiết giam giữ vào trong một rừng rác rưởi'. Thật là đáng trân trọng khi sống trong một xã hội rối ren, loạn lạc nhưng vẫn giữ được lòng thuần khiết, không bị vấy bùn, ông còn biết trân trọng cái đẹp, biết tôn trọng những tài năng, là một người dũng cảm không sợ khó khăn.
Trong một đêm hoang tàn, tại trại giam tỉnh Sơn đã diễn ra “một cảnh tượng chưa từng thấy”. Trong buồng giam tối om, chật chội, mùi ẩm mốc lan tỏa, khắp nơi là mạng nhện, mùi hôi thối của phân chuột, phân gián. Trong không khí u ám, ngọn lửa sáng rực của ngọn đuốc đang cháy dữ dội. “Một tù nhân, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang tâm huyết ghi chữ lên tờ lụa trắng”, viên quản ngục “sợ hãi”, thầy thơ lại “run sợ đặt chậu mực”, tư thế của nhân vật dường như biến đổi khiến người nắm quyền đột ngột khuất phục, kính cẩn trước một kẻ tù tội. Cái đẹp không tồn tại độc lập, nó không tồn tại song song với cái xấu mà vượt lên trên chúng, biến những tâm hồn bất định thành những con người có phẩm giá.
Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một tác phẩm thiên truyện đã đạt đến “sự hoàn mỹ, toàn vẹn”. Tác phẩm này thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo ra các tình huống truyện độc đáo, mô tả tính cách nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản sắc bén, sử dụng ngôn từ trang trọng và hình ảnh sống động. Qua câu chuyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại mãi mãi của cái đẹp, thể hiện lòng yêu nước thầm lặng của Nguyễn Tuân.
Phân tích Chữ người tử tù - Mẫu 4
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một nhà văn say mê vẻ đẹp. Ông say mê cái đẹp, tôn thờ cái đẹp, tôn trọng cái đẹp. Theo ông, cái đẹp là tối cao của con người. Ông tìm kiếm cái đẹp một cách miệt mài. Ông mô tả cái đẹp bằng cách sử dụng ngôn từ phong phú của mình. Những nhân vật trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là biểu hiện của cái đẹp.
Những cá nhân tài năng luôn hoạt động trong những bối cảnh đặc biệt, phi thường. Tác giả phát hiện và miêu tả cái đẹp bên ngoài cũng như bên trong của nhân vật. Đối với ông, cái đẹp bao gồm cả lòng nhân từ và tính thiện. Ông kết hợp mĩ thuật với dũng khí. Trong tập truyện ngắn 'Chữ người tử tù' (1939) thuộc 'Vang bóng một thời', có một truyện được coi là đỉnh cao văn chương, là minh chứng rõ ràng nhất cho quan điểm của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện rõ nhất trong đoạn miêu tả “một cảnh tượng chưa từng thấy”, cảnh tượng một người tù viết chữ trong nhà tù.
Trong truyện 'Chữ người tử tù', ông Huấn Cao là một nhà văn tài hoa của một thời đã qua, chỉ còn lại 'vẻ đẹp'. Nguyễn Tuân đã lấy cảm hứng từ Cao Bá Quát, một nhà thơ, nhà giáo và một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa của nông dân, để tạo ra nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát cũng là một người có tài năng và dũng khí phi thường, và ông được sử dụng làm mẫu nguyên tác để xây dựng nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Nguyễn Tuân đã lấy hai tính cách của nguyên mẫu để tạo ra nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát nổi tiếng với chữ đẹp và sự quý phái. Việc xây dựng nhân vật Huấn Cao cho phép Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của mình và vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của mình đối với xã hội đen ác.
Trong truyện, có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một là viên quản ngục mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để 'xưng chữ' treo trong nhà. Viên quản ngục coi chữ của Huấn Cao như một kho báu.
Hai nhân vật đã gặp nhau trong một tình huống đáng sợ, trong nhà tù. Người có tài viết chữ đẹp là một người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa nông dân đang bị giam giữ, trong khi người mê chữ đẹp của Huấn Cao lại là một viên quản ngục đại diện cho sự trật tự xã hội. Mặc dù họ ở hai vị trí đối lập trong xã hội, nhưng trong nghệ thuật, họ lại tương đồng. Tính kịch tính của câu chuyện cho phép tính cách của hai nhân vật được phát triển một cách sâu sắc và tư tưởng chủ đề của câu chuyện được thể hiện một cách rõ ràng.
Huấn Cao đã nói: 'Ta sinh ra không phải vì vàng ngọc hay quyền lực để buộc mình phải viết câu đối bất kỳ'. Ông coi thường tiền bạc và quyền lực, nhưng ông lại tôn trọng chữ viết của viên quản ngục. Ông thấu hiểu rằng, sống giữa môi trường xã hội hỗn loạn này, nơi mà người ta sống bằng tàn nhẫn và lừa dối, vẫn có những người biết trân trọng giá trị tinh thần, biết đánh giá cái đẹp của chữ viết nghĩa. 'Ta cảm thấy rất khâm phục và biết ơn sự trí tuệ và cao quý của các ngươi. Không ngờ viên quản ngục lại có những sở thích cao quý như vậy'. Viên quản ngục cũng không dễ dàng nhận được chữ của Huấn Cao. Ông đã phải đối mặt với sự nghi ngờ và bị đuổi. Một lần, khi cố gắng giao tiếp và thân thiết với Huấn Cao để xin chữ, ông đã bị từ chối: 'Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây'. Sau khi hiểu được lòng của viên quản ngục, ông đã nói một câu rất sâu sắc và đầy xúc động: 'Nếu ta không nhận ra lòng tốt trong xã hội này, thì ta sẽ đã làm mất một điều quý giá nhất trong cuộc đời'.
Huấn Cao khinh bỉ quyền lực và tiền bạc, ông chỉ trọng trái tim biết quý cái đẹp, tài năng, và có những sở thích cao quý. Những người như vậy theo Huấn Cao vẫn giữ được sự thuần khiết. Ông khuyên viên quản ngục nên từ bỏ công việc bẩn thỉu của họ vì 'ở đây, khó mà giữ được lòng thuần khiết cho đến cuối cùng, và rồi cũng sẽ mất đi tất cả lòng tốt trong cuộc đời'.
Huấn Cao vẫn giữ được tư thế hiên ngang, thể hiện khí phách của một anh hùng như Cao Bá Quát, dù là một người tử tù gần đến ngày tử hình. 'Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián'. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, 'một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng'. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một 'cảnh tượng xưa nay chưa từng có'?
Cảnh tượng này thật lạ lùng, chưa từng thấy vì trò chơi với từ ngữ tinh tế không diễn ra trong không gian văn phòng, thư viện, mà lại diễn ra trong căn nhà tù tối tăm, chật hẹp, với mùi hôi nồng nặc.
Tranh cãi hôm nay không khác gì một vở kịch, với những nhân vật chính từng bước nổi bật trên sân khấu, trong khi những kẻ đại diện cho xã hội lại lung lay trong bóng tối của nghi ngờ.
Trong cảnh tượng tăm tối, không phải sự tàn bạo mà là vẻ đẹp và cao quý chiếm lĩnh. Từ những nét chữ, nhà ngục đã chìm vào quên lãng, chỉ còn lại sự sáng tạo của nghệ sĩ trước ánh mắt ngưỡng mộ. Người tử tù sắp bước vào thế giới bất tử, mang theo hoài bão và triết lí cho người khác.
Trong cảnh tăm tối, hình ảnh viên quản ngục cũng đọng lại trong lòng người. Giọng nói run run, tư thế nhỏ nhẹ không phải là sự yếu đuối mà là sự chân thành, khiến ta đồng cảm với họ.
Đoạn văn này của Huấn Cao là điểm sáng của truyện, với bút pháp tinh tế, chi tiết sống động, và ngôn ngữ sáng tạo. Một không khí cổ điển và xúc động trỗi dậy trong từng dòng văn.
'Chữ người tử tù' không chỉ là chữ mà còn là biểu tượng cho hoài bão của mỗi con người. Đây là sự thắng lợi của vẻ đẹp và cao quý trước sự phàm trần. Hòa hợp giữa vẻ đẹp và dũng cảm là điều tối cao trong triết lí của Nguyễn Tuân.
Phân tích về tác phẩm 'Chữ người tử tù' - Mẫu 5
Nguyễn Tuân, một tên tuổi lớn trong văn học Việt Nam, được biết đến với tài năng vượt trội. Mỗi câu văn của ông như một nghệ thuật điêu khắc trên bề mặt của ngôn ngữ. Trong đó, 'Chữ người tử tù' là một tác phẩm nổi bật với hình tượng Huấn Cao và cảnh chữ độc đáo.
Huấn Cao, một biểu tượng của văn học lãng mạn, được tạo hình theo những tiêu chuẩn cao cả. Ông biểu hiện cho những ước mơ và khát vọng tinh thần của nhà văn. Đặc biệt, nghệ thuật thư pháp của ông là biểu tượng cho tâm hồn và khí phách.
Như một nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao không chỉ biểu lộ qua bút pháp mà còn thông qua tấm lòng nhân đạo. Quản ngục đánh đổi tất cả để có được chữ của ông, thể hiện sự trân trọng đối với tác phẩm và ý nghĩa của nó.
Một nhà văn đã nói: 'Tài năng nằm trong trái tim'. Tấm lòng biết trân trọng thiên lương là nguồn gốc của nhân cách Huấn Cao. Đối diện với sự khinh bỉ, ông thể hiện lòng biết ơn và tôn trọng, làm nổi bật phương châm sống của một nhân cách đích thực.
Cảm hứng lãng mạn thường khiến các nghệ sĩ muốn khắc họa những hình tượng hoàn hảo, thậm chí là phi thường. Huấn Cao, tạo hình bởi Nguyễn Tuân, trở thành một con người siêu phàm với khí phách siêu việt.
Cảnh cho chữ là biểu hiện sống động của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao, nhấn mạnh trong tác phẩm của Nguyễn Tuân.
Quá trình dẫn đến cảnh cho chữ là điểm nhấn của câu chuyện, khi hai nhân vật đối lập - Huấn Cao và quản ngục, đối mặt với quyết định cuối cùng.
Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của Huấn Cao, nhưng mọi thứ rối ren khi họ phải đối mặt với nhau trong một tình huống đặc biệt.
Cho chữ không chỉ là việc trả nợ hay trình diễn tài năng, mà là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.
Cảnh cho chữ, được Nguyễn Tuân mô tả là cảnh hiếm có, diễn ra trong căn buồng giam nhưng lại tràn ngập cái đẹp và sự chiến thắng của thiên lương trước cái ác.
Tác giả khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, và có khả năng giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn, thậm chí cứu rỗi linh hồn con người.
Nguyễn Tuân sử dụng nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và hệ thống ngôn ngữ cổ để làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp.
Phân tích Chữ người tử tù - Mẫu 6
Nhập cuộc văn đàn Việt Nam, ta không thể không ngạc nhiên bởi cái đẹp hiện hữu khắp mọi nơi, man mác trên từng trang văn của Nguyễn Tuân.
Suy tưởng về cái đẹp được xem là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Cái đẹp ấy tỏa sáng lạ thường trong 'Chữ người tử tù', nơi ghi lại cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Huấn Cao và viên quản ngục.
Huấn Cao, người sinh ra cái đẹp trong 'Chữ người tử tù', không chỉ là biểu tượng của vẻ đẹp thiêng liêng mà còn là sự hiện diện của sự tỏa sáng của thiên lương và nhân đạo trong một hoàn cảnh đề lao.
Sự tài năng của Huấn Cao không chỉ làm nổi bật, mà còn làm cho quản ngục trở thành người trân trọng và say mê cái đẹp. Quản ngục đã biến thành một người nghệ sĩ thực sự, biết trân trọng và yêu thích cái đẹp.
Trong 'Chữ người tử tù', cảnh cho chữ là một hiện tượng đặc biệt, là sự sinh ra của cái đẹp ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Cái đẹp đã chiếm lĩnh và chiếu sáng mọi góc khuất của nhà tù.
Văn của Nguyễn Tuân không chỉ thu hút với sự sâu sắc và tinh tế, mà còn với cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo. Bằng việc sử dụng từ ngữ cổ kính, ông tạo nên một không khí trang trọng và lịch lãm, làm nổi bật sự thắng thế của cái đẹp trong tác phẩm.
Nguyễn Tuân đã tạo ra một tác phẩm không dành cho mọi người, mà chỉ thực sự có ý nghĩa với những người suy tư sâu xa. 'Chữ người tử tù' không chỉ làm nổi bật một thời kỳ, mà còn sẽ tỏa sáng mãi mãi.
Phân tích Chữ người tử tù - Mẫu 7
Nguyễn Tuân, được sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo triết lý của nhà Nho, đã dành cả cuộc đời mình để tìm kiếm và trân trọng cái đẹp. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trong tập “Vang bóng một thời” là một tác phẩm nghệ thuật nổi bật, đánh dấu sự tài năng của Huấn Cao trước cách mạng tháng Tám.
Trong phần kết của tác phẩm, việc tác giả miêu tả cảnh cho chữ nhấn mạnh vẻ đẹp của nhân vật anh hùng Huấn Cao, thể hiện sự thắng thế của cái thiện trong cuộc sống. Đây có thể coi là một trong những cảnh đáng giá nhất từ trước đến nay.
Chơi chữ từ lâu đã là niềm vui tinh tế, thanh cao của những người trí thức. Điều này cho thấy tài năng và trí tuệ của họ. Nhưng trong 'Chữ người tử tù', Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một cảnh tượng chưa từng thấy trước đây, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Mô tả về không gian và thời gian trong cảnh cho chữ được thực hiện một cách sinh động và chân thực. Cảnh tượng này làm cho trái tim của người đọc đầy xúc động và rung động.
Trong không gian tối tăm, ba người đang cống hiến cho sự sáng tạo, tạo ra một tác phẩm hoàn hảo. Sự đối lập giữa Huấn Cao và viên quản ngục được thể hiện rõ qua từng hành động và cử chỉ của họ.
Bởi có đứng trước cái đẹp nên mọi cảnh vật bỗng dường như chậm lại, khiến trái tim con người đập mạnh, như có một thứ gì đó bóp nghẹt, không cần nói một lời nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh phúc, niềm vui đang tràn ngập trong lòng mỗi người yêu cái đẹp trong hoàn cảnh khó khăn này. Điều lạ là một viên quản ngục “quyền lực cao nhất” nhưng lại cúi đầu trước một người tù, thực ra là viên quản ngục đang cúi đầu trước vẻ đẹp tài năng và lòng thiện lương của người tử tù. Khi nét chữ cuối cùng được viết xong, Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ ở để giữ cho lòng trong sạch, tỉnh táo và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi bẩn thỉu của xã hội. Trước những lời khuyên đó, viên quản ngục đã xúc động, biết ơn và tôn trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt dài trên khuôn mặt ông chính là biểu hiện của sự tiếc thương cho số phận của người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy cảm xúc, tác giả Nguyễn Tuân đã ẩn dụ vị thế của cái đẹp thiên lương, ở bất kỳ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí không đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người tốt với tấm lòng nhân hậu đang lạc nơi bóng tối và tội ác, đưa họ trở lại con đường chân chính, tươi sáng. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả là người giàu kiến thức, sức tưởng tượng phong phú và độc đáo. Vì vậy, tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối lập nhau, một bên là màu của khung cảnh tăm tối trong ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.
Kết tinh từ tài năng, sáng tạo và tư duy độc đáo, Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành một cảnh tượng chưa từng thấy. Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn hướng đến cái thiện và mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo thể hiện tấm lòng của mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận của người anh hùng nhân hậu, hùng cường và có nhân cách cao quý.
Phân tích về 'Chữ người tử tù' - Mẫu 8
Trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả như một nghệ sĩ nhìn nhận. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng theo cách đó. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo ra một tình huống truyện độc đáo, là cảnh cho chữ trong nhà giam - đây là phần đặc biệt nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Khoảnh khắc viết chữ ở cuối tác phẩm, tại điểm này tình huống truyện leo thang vì viên quản ngục bất ngờ nhận được công văn về việc xử tử những kẻ phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do đó, phần cho chữ mang ý nghĩa cởi mở, giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi trong lòng người đọc, từ đó phản ánh những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Nhận được công văn, viên quản ngục đã bày tỏ tâm sự với thầy thơ. Nghe xong truyện, thầy thơ đã trực tiếp đến gặp Huấn Cao để chia sẻ tâm tư của viên quản ngục. Và vào đêm đó, trong buồng giam tối tăm, với ánh sáng đỏ rực từ bó đuốc, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” diễn ra. Thường thì để sáng tạo nghệ thuật, người ta thường tìm đến những nơi đẹp, thoáng đãng, yên bình. Nhưng ngay cả trong không gian bóng tối, bẩn thỉu của nhà giam, sáng tạo nghệ thuật vẫn hiện hữu. Thời gian ở đây cũng gợi lên tình hình của người bị giam giữ. Đó có lẽ là đêm cuối cùng của Huấn Cao - người viết chữ và cũng là giây phút cuối cùng. Trong tình hình đó, “một người tù cùng gông, chân cùng xiềng” vẫn tự tin, kiêu căng “viết chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong khi đó, viên quản ngục và thầy thơ lại lặng lẽ chuyển động.Ở đây, dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục thường phải hô hào, răn đe kẻ tù. Nhưng trong cảnh tượng này, tù nhân lại trở thành người răn dạy, truyền bá cái đẹp.
Đây thực sự là một cuộc gặp gỡ chưa từng có giữa Huấn Cao - người viết chữ tài năng và viên quản ngục, thầy thơ - những người yêu thích chơi chữ. Họ gặp nhau trong tình huống đặc biệt: một bên là kẻ phản loạn phải nhận án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Xã hội, họ đứng ở hai phía đối lập nhưng ở mặt nghệ thuật, họ lại là bạn tri âm, tri kỉ. Vì vậy, là tiếc nuối vì đây là lần gặp nhau đầu tiên nhưng cũng là lần gặp nhau cuối cùng. Hơn nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thực sự của họ. Trong đoạn văn, tác giả sử dụng sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để tạo ra câu chuyện cũng như diễn đạt theo sự biến đổi của ánh sáng và bóng tối. Sự lộn xộn, hỗn độn của nhà giam với sự thuần khiết của lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Tác giả đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, làm rõ sự thăng tiến của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Lúc đó, từ một mối quan hệ đối lập kỳ lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy trong nhà giam tối tăm, cái đẹp được tạo ra giữa những nơi đầy chất bẩn... ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện rất ấn tượng.
Sau khi viết xong, Huấn Cao khuyên viên quản ngục nên rời khỏi nhà giam bẩn thỉu: “đổi chỗ ở” để tiếp tục theo đuổi sở thích cao cả. Để chơi chữ, phải giữ được cái thiện. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó lòng tồn tại. Cái đẹp có thể nảy sinh từ những nơi tăm tối, bẩn thỉu, từ môi trường của cái ác (cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc nhở về nghệ thuật chơi chữ là một nghệ thuật đòi hỏi cảm nhận không chỉ qua thị giác mà còn qua tâm hồn. Người ta thưởng thức chứ không mấy ai nhận ra, cảm nhận mùi hương của mực. Hãy tìm kiếm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là cách thể hiện cách sống văn minh.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “vái người tù một cái, chắp tay nói một câu mà nước mắt rơi vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao quý và tài năng xuất chúng, người tử tù đã dẫn viên quản ngục đến cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết, Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lạc lối. Trong bóng tối của nhà giam, hình ảnh Huấn Cao trở nên cao lớn, vượt lên trên những điều bình dân của thế giới xung quanh. Đồng thời, thể hiện niềm tin vững chắc của con người: trong mọi hoàn cảnh, con người luôn khát khao hướng tới cái thiện.
Có người cho rằng: Nguyễn Tuân là một nhà văn chỉ quan tâm đến cái đẹp và nghệ thuật. Tuy nhiên, qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” và đặc biệt là cảnh cho chữ, chúng ta thấy rằng nhận xét đó là không chính xác. Truyện này ca ngợi cái đẹp nhưng luôn kết hợp với cái thiện, cái lương thiện của con người. Quan điểm này đã phủ nhận định kiến về nghệ thuật trước cách mạng. Nguyễn Tuân là một nhà văn với tư duy nghệ thuật cao cả, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Ngoài ra, truyện còn ca ngợi viên quản ngục và thầy thơ là những người sống trong môi trường đen tối nhưng vẫn giữ được tấm lòng thuần khiết và tình yêu nước, không hề kham ác như những kẻ thống trị.
“Chữ người tử tù” là một bài ca vĩ đại, bất diệt về cái đẹp, tài năng và phẩm chất cao quý của con người. Hành động viết chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng truyền đạt tài năng và lương thiện cho thế hệ sau. Nếu không có việc truyền đạt này, cái đẹp sẽ phai mờ. Đó cũng là ý muốn giữ gìn cái đẹp cho thế hệ sau.
Với nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh, ta như được dẫn vào một bộ phim chạy chậm. Mỗi hình ảnh, mỗi động tác hiện lên dưới bút của Nguyễn Tuân, như một bức tranh sống động: một buồng tối chật hẹp... hình ảnh con người viết chữ trên tấm lụa trắng, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Trình tự miêu tả cũng thể hiện rõ ràng từ bóng tối đến ánh sáng, từ xấu xa đến đẹp đẽ. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính tạo nên không khí đặc biệt cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ Hán Việt để mô tả thú chơi chữ. Tác giả đã 'phục chế' cái cổ xưa bằng kỹ thuật hiện đại như phân tích tâm lí nhân vật và sử dụng ngôn ngữ sống động.
Cảnh viết chữ trong “Chữ người tử tù” thể hiện sự tài năng, sáng tạo và tư duy độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm thể hiện lòng ngưỡng mộ và nuối tiếc đối với những con người có tài năng, phẩm chất và đạo đức cao. Tác giả cũng thể hiện sự đau xót chung trước sự hủy hoại của cái đẹp chân chính. Tác phẩm phản ánh một tiếng nói nhân bản: dù cuộc sống có đen tối, vẫn có những tấm lòng sáng sủa.
Phân tích Chữ người tử tù - Mẫu 9
Nguyễn Tuân là một cây bút tài ba của văn học Việt Nam. Sự nghiệp sáng tác của ông được chia thành hai giai đoạn: trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước đó, ông tập trung vào phong cách “Vang bóng một thời-trụy lạc-xê dịch”. Trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”, ông đã thành công trong việc khắc họa Huấn Cao, một nhân vật sĩ diện với tấm lòng thẳng thắn.
Huấn Cao là một người sĩ tử dũng cảm với lý tưởng cao cả, chống lại sự thối nát của triều đình mặc cho mọi khó khăn. Dù bị coi là 'nguy hiểm nhất' bởi bọn lính, ông vẫn được thầy thơ và người quản ngục kính trọng. Sự tài ba của ông không chỉ là trong việc viết chữ mà còn ở cái tâm thanh cao giữa chốn tù ngục.
Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Tuân đã vẽ nên hình ảnh rõ nét của Huấn Cao, một nhân vật đầy oai phong, rất độc đáo. Dù là kẻ tù, nhưng ông không sợ trời, không sợ đất, và luôn khiến mọi người phải ngưỡng mộ bởi khí phách của mình.
Trong chốn lao tù, Huấn Cao được biết đến như một người sĩ tử tài hoa, được mọi người tôn trọng với tài viết chữ đẹp. Người ta sùng bái chữ của ông như một báu vật, và một số người thậm chí ước mong có chữ của Huấn Cao để treo trong nhà.
Nguyễn Tuân thực sự tài năng, mỗi câu chữ của ông như một bức tranh sống động về Huấn Cao, một người sĩ quan trọng trong lịch sử.
Huấn Cao còn là một người trân trọng tình bạn, mến mộ những người có “tâm hồn cao cả” trong xã hội. Thông qua câu chuyện của viên quản ngục, ông hiểu được lòng trung thành và khao khát sở hữu chữ viết của mình từ người đó. Ông bày tỏ sự xúc động khi nhận ra tấm lòng nhân ái của họ: “Ta biết ơn vì tấm lòng cao cả của các người. Ta không ngờ thầy quản lại có niềm đam mê cao quý như thế. Thiếu chút nữa, ta đã mất đi một tấm lòng tốt trong xã hội”.
Cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm là một trong những hình ảnh khó quên nhất. Nó không diễn ra trong một không gian cao sang mà lại xuất hiện giữa chốn giam giữ. Hình ảnh ba người trong cảnh tượng đó làm cho nó trở nên tuyệt vời và sâu sắc. Họ không chỉ là những người bị giam giữ mà còn là những người yêu cái đẹp, tâm niệm về cái đẹp nhất. Cảnh cho chữ thật thiêng liêng và đầy xúc động, là sự gặp gỡ muộn màng giữa những người tôn vinh cái đẹp. Hình ảnh Huấn Cao viết chữ dưới ánh đèn hỏa lực, viên quản ngục “vái lạy” ông và ông đỡ viên quản ngục dây thực sự làm xúc động người đọc. Thời điểm nguy nan giữa sự sống và cái chết làm cho tâm hồn kẻ sĩ ấy trở nên kiên cường, rực rỡ hơn. Một anh hùng không thể bị mắc kẹt trong vỏ bóng tối, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với tinh thần ấy. Và Huấn Cao chính là một anh hùng như vậy.
Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đẹp đẽ qua từng nét bút của Nguyễn Tuân, khiến người đọc không thể rời mắt khỏi trang sách. Ông là biểu tượng của sự hoàn hảo, của cái đẹp vĩnh cửu và trung thành. Một con người hiếm có trong xã hội.
Gấp lại trang sách, hình ảnh của Huấn Cao vẫn hiện lên rõ ràng trong tâm trí người đọc. Ông là biểu tượng của sự kiêng nể và lòng dũng cảm giữa bóng tối và bất công của thế giới.
Phân tích Chữ người tử tù - Mẫu 10
Nguyễn Tuân là một danh nhân văn học vĩ đại của Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến một tác giả tài ba. Dưới bàn tay của ông, từng câu chữ hiện ra như những nét điêu khắc tinh xảo trên bức tranh ngôn ngữ. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông chính là Chữ người tử tù. Hình ảnh của nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ - một khung cảnh hiếm thấy được tạo hình rõ ràng trong đoạn trích.
Truyện ngắn Chữ người tử tù ban đầu được đặt tên là Dòng chữ cuối cùng, xuất bản năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được chọn để in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Nhân vật chính trong truyện là Huấn Cao, một biểu tượng trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Họ là những người có tài năng, không may thì bị thất bại. Họ không chỉ có tài mà còn có lòng trung trực, mặc dù không thành công nhưng vẫn kiên cường, không khuất phục.
Đoạn trích Chữ người tử tù kể về một viên quản ngục trọng trách tài năng, đặc biệt là khả năng viết chữ Hán đẹp, nhưng đáng tiếc vận mệnh lại là một tên bị án tử hình (chém), trước cái tài, cái đẹp viên quản ngục đã âm thầm kính trọng tử tù với hy vọng được nhận chữ quý. Họ cố gắng mọi cách để nhận chữ nhưng do Huấn Cao - tử tù tưởng viên quản ngục là người xấu nên đã từ chối, cao trào đoạn trích khi tử tù được đưa ra sân thượng thì ông mới được tử tù cho chữ và những lời khuyên đáng quý trong cuộc sống.
Tình huống trong truyện tạo ra sự thú vị cho câu chuyện. Nguyễn Tuân đã tạo ra một tình huống đầy màu sắc, tuy trắc trở nhưng chính điều đó tạo nên sự hấp dẫn trong mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh, để phát huy những giá trị đẹp của con người tài đức.
Bằng bút văn lãng mạn, tức là mô phỏng theo một mô hình lý tưởng. Tác giả thường sử dụng trí tưởng tượng để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Do đó, nhân vật trong câu chuyện thường có phẩm chất phi thường. Trong đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh của Huấn Cao là một nhân vật đặc biệt theo phong cách lãng mạn. Tác giả vẽ nên nhân vật chính qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thơ văn. Mặc dù chỉ là một hình ảnh gián tiếp nhưng vẻ đẹp của Huấn Cao là sự kỳ diệu của một người tài năng và danh tiếng khắp Sơn. Chữ viết của ông “đẹp lắm, vuông lắm”, là niềm mơ ước của nhiều người. Mỗi từ ngữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc, hiện thân cho tinh thần, phẩm chất của người viết. Chữ Huấn Cao là biểu hiện của nhân cách ông. Nó có giá trị không chỉ vì đẹp và vuông mà còn vì là biểu hiện của khao khát tự do của một con người. Việc có được chữ Huấn Cao đã trở thành ước mơ thiêng liêng nhất của quản ngục. Họ sẵn lòng hy sinh tất cả để có được, kể cả sinh mạng và quyền lợi của mình.
Ngoài tài năng văn chương, ông còn là một người có lòng trung trực, cao quý. Dù được nhiều người mong muốn mua chữ của ông, nhưng ông không bán. Ông chỉ trao chữ cho những người xứng đáng, biết trân trọng cái Thiện, cái Mỹ.
Tính cách của Huấn Cao là như vậy, nên khi quản ngục hiểu được ý định và đối xử tốt với ông, ông luôn thể hiện bất cần và không chú ý. Thế nhưng, người đọc lại thấy quản ngục là một nhân vật lương thiện, biết phân biệt đẹp tốt, có sở thích tao nhã: viết chữ. Ước mơ của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Sở ước này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, hy sinh bản thân, biến một phạm nhân bị án tử hình thành một thần tượng.
Tuy nhiên, khi biết được lòng tốt và mong muốn chính đáng, Huấn Cao đã trao chữ cho quản ngục. Điều đáng chú ý là cảnh cho chữ diễn ra trong một không gian chật hẹp, ông là người tử tù. Nhưng dù điều kiện khắc nghiệt, cảnh tượng đẹp là điều không thể phủ nhận, là biểu hiện của sự đẹp và tâm hồn trong sạch. Huấn Cao còn khuyên quản ngục về việc tránh xa cuộc sống bon chen, tìm về với bản nguyên. Trong họ chỉ còn lòng kính trọng và tôn sùng vẻ đẹp. Thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, dẫn dắt quản ngục, một người lạc lối, trở lại con đường đúng đắn.
Tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, gần nhau hơn. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.
Phân tích truyện Chữ người tử tù một cách toàn diện nhất
Phân tích truyện Chữ người tử tù - Mẫu 1
Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, hay còn gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội. Ông là một nhà văn có phẩm hạnh đoan trang và tài năng xuất chúng trong văn học; ông hiểu biết rộng, tôn trọng tài năng và công việc của mình, và có những đóng góp sáng tạo trong văn xuôi cũng như trong tư duy. Sự nghiệp văn học của ông được chia thành hai giai đoạn: trước năm 1945 và sau năm 1945. Nguyễn Tuân đã có những đóng góp quan trọng cho văn học hiện đại, đặc biệt là trong thể loại tùy bút, với sự nhạy cảm và phong cách văn học đa dạng như một ống kính đa chiều.
Chữ người tử tù kể về một viên quản ngục mê mẩn tài năng, đặc biệt là tài viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù có án tử hình. Ông đã một cách bí mật đối đãi tôn trọng người tù, hy vọng có được chữ quý. Cuối cùng, khi ông tưởng đã mất hết hy vọng, thì lại được người tù vui vẻ trao chữ.
Tác giả khuyên quản ngục nên từ bỏ công việc quản ngục, về quê sống một cuộc sống giản dị để bảo toàn tâm hồn trong sạch, phù hợp với sở thích viết chữ đẹp. Thông qua câu chuyện này, đặc biệt là cảnh ban đêm trao chữ dưới ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn tôn vinh giá trị cao quý của Cái Đẹp: từ vẻ đẹp của chữ viết, đức độ cao, đến nhân cách tốt. Ông ca ngợi người biết trân trọng và giữ gìn Cái Đẹp như một kho báu trong cuộc sống, không thể đổi bằng ngọc vàng hay quyền lực.
Đối với độc giả ngày nay, việc tìm hiểu văn học cổ điển luôn là một thách thức. Đó là do phải vượt qua các rào cản văn hóa và lịch sử của thời đại đó. Nói về thời kì phong kiến là nhắc đến quan lại và dân thường, địa chủ và nông dân. Nói về triết học Nho là nhắc đến cương thường và trí tuệ quân sự, dưới trách nhiệm của người quản lý. Nói về đạo Phật là nhắc đến sự phát triển của lòng từ bi... vậy nên, hiểu về những thành tựu văn hóa và tinh thần của thời kì đó trong truyện ngắn này thật sự không dễ dàng chút nào.
Chữ người tử tù lấy từ tập truyện Vang bóng một thời. Như cái tên, đó là cuốn sách ghi lại về một thời kỳ và một nhóm người đã khuất trong quá khứ, nhưng họ vẫn tồn tại sâu đậm trong ký ức, trong lòng kính trọng và tôn sùng của tác giả.
Nguyễn Tuân đã tạo ra một không khí xưa cũ sống động trong truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, và sự kiện được mô tả chi tiết, đem chúng ta quay về quá khứ hơn trăm năm trước.
Trong đoạn mở đầu, từ 'phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường' đã được sử dụng một cách rõ ràng và cụ thể. Tác giả giữ nguyên cách gọi của thời đại để giữ lại tính cách quan trọng của từng chữ, làm nổi bật quyền lực trong từng dòng chữ... Điều này giúp người đọc hiểu được sâu sắc hơn về bối cảnh xã hội và chính trị của thời kỳ đó.
Người viết đã sử dụng từ ngôn ngữ xưa để tái hiện một phong cách đặc trưng của quá khứ. Những mô tả về cảnh vật và con người, cũng như việc truyền đạt ý nghĩa của việc viết chữ, đều giúp đọc giả hiểu rõ hơn về một phần văn hóa cổ xưa, và làm cho câu chuyện trở nên sinh động và hấp dẫn.
Cốt truyện của Chữ người tử tù xoay quanh việc tôn vinh tài năng viết chữ đẹp của một người bị kết án tử hình. Ý nghĩa của câu chuyện có thể được diễn giải theo nhiều cách, nhưng điểm chung là tôn trọng và đánh giá cao cái đẹp trong đời sống.
Nói về chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp có thể hơi lố bốn phía đấy? Nhưng cái đẹp ấy trong chữ viết của người tù thì không thể phủ nhận. Viên quản ngục đã nghe đồn khắp vùng Sơn ca tỉnh khen ngợi tài viết chữ xuất sắc của kẻ này. Tất nhiên tài viết chữ ấy là của Huấn Cao, một tên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn Tây. Nhưng liệu Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát, nhà thơ và người viết chữ đẹp nổi tiếng, đã từng bị triều đình bắt giữ và bị giáng chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn, và tham gia nổi dậy chống lại chính quyền quân thần hay không, thì không ai biết chắc. Đó là một bí mật sâu kín, một điều mà những người xưa gọi là “trăng ẩn mây mù”. Nếu có gì trùng hợp thì chỉ là ngẫu nhiên thôi.
Thường thì, mọi người đều quý trọng cái đẹp vì nó làm cuộc sống thêm phong phú và ý nghĩa. Chữ đẹp cũng vậy. Đó là chữ Hán cổ, một loại chữ tượng hình, được biến tấu qua nhiều thế hệ để tạo ra một nghệ thuật viết chữ với những nguyên tắc rất nghiêm ngặt (thư pháp). Trong sách cổ của Việt Nam và Trung Quốc, thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là biểu tượng của mẫu chữ đẹp, cùng với sự xuất hiện của nhiều trường phái viết chữ Hán. Trong quá khứ, những gia đình giàu có, đặc biệt là những gia đình có học vấn, thường treo nhiều bức hoành phi, câu đối, bức châm, bức trướng... làm từ lụa trắng, giấy dày in hoa, gỗ sơn mài vàng hoặc khảm. Đặc biệt là bức châm, bộ tứ bình lụa kết hợp thành một bức tranh với những bài thơ Đường được viết bằng chữ đẹp là một điều vinh dự, là một bảo vật quý giá hơn cả vàng bạc.
Chữ đẹp là một loại đẹp hiếm có trên thế giới, nhưng đáng tiếc, nó lại thuộc về một người tù đang đối mặt với tử hình, điều đó có nghĩa là khi họ mất đi, chữ đẹp cũng sẽ mất theo. Sự mất mát của một tài sản quý giá trên trái đất đã rõ ràng. Châu ngọc có thể được tìm thấy, nhưng nét chữ cầu kỳ đó, nét chữ mà cả một tỉnh phải ca ngợi, thì tìm ở đâu? Điều đó khiến cho vẻ đẹp của nó càng thêm lấp lánh.
Bên cạnh việc viết chữ đẹp, người tù còn có phẩm cách cao quý khác thường. Khi nhà văn đề cập đến việc bẻ khóa để trốn khỏi ngục, có lẽ ông muốn làm nổi bật khả năng võ nghệ cùng với tài văn học. Đừng nghĩ rằng đó là điều lạc hậu. Bẻ khóa trốn khỏi ngục, chống lại chính quyền bạo tàn để giúp dân lành thì ai dám nói đó là việc không đáng khen ngợi? Viên quản ngục lễ phép tỏ ra kính trọng người tù là vì họ biết đây là một người có lòng hiếu kính. Đó không chỉ là vì nghe tên Huấn Cao và nhớ đến lời đồn về chữ đẹp, mà còn là vì họ đã nghe nhiều điều khác về con người ấy: Những người làm nên lịch sử, đến đầu người khác, người ta cũng không còn nhớ nữa... Trong Huấn Cao, vẻ đẹp của tâm hồn, của phẩm cách và hành động, tất cả đều ẩn sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp ấy là đẹp về đạo đức, còn chữ đẹp là nghệ thuật. Một nghệ thuật đẹp và tuyệt vời, ai cũng phải mê mẩn và ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân đã chọn nó làm trung tâm của câu chuyện.
Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đã đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp.
Thái độ đầu tiên là phủ nhận.
Một số nhân vật trong truyện được mô tả nhưng họ chỉ là những kẻ thô tục, sống lâu trong tù nên bị ô nhiễm bởi thói hư hỏng. Họ là những người lính thô tục, lính canh, hoặc chỉ là những tù nhân bình thường. Cuộc sống của họ đầy tàn nhẫn và lừa dối. Họ chỉ là một bọn cặn bã, một bầy quỷ quái. Khi thấy những người khác bảo nhau quỳ gối để thúc chiếc gông vào thềm đá, một trong số họ lại nói mỉa mai: 'Hãy chuẩn bị cho ngày mai khi sẽ có người dẫn các bạn ra nơi đó để tiếp tục bài tập. Bây giờ hãy dừng lại.' Một khi viên quản ngục thể hiện sự kính trọng và sự kiêng nể đối với Huấn Cao, hắn lên tiếng nhắc nhở: 'Hãy để ý đến ông. Hắn là người mạnh mẽ nhất trong số họ. Không ai có thể tránh khỏi tình trạng bất công khi sống trong một môi trường xấu xa như thế. Thậm chí cả những người có lòng trong sạch cũng sẽ bị ảnh hưởng và cuối cùng họ cũng sẽ trở nên nhẹ dạ. Lời khuyên của Huấn Cao đến viên quản ngục cuối cùng chỉ là sự minh chứng cho sự hủy hoại vĩnh viễn của hệ thống tù tội trong thời kỳ suy thoái. Cao Bá Quát đã có bài thơ nói về chiếc gông: 'Mày chỉ biết dùng gông, nhưng mày không biết gì về đạo đức, không biết gì về điều tốt xấu trên thế giới.' Điều này chỉ ra rằng các nhân vật trong truyện, dù là Huấn Cao hay những quan tướng khác, dù có trí tuệ và tài năng đến đâu, họ vẫn chỉ là những tù nhân, và công việc của họ chỉ là tiêu diệt.
Một loại người khác, dù không xuất hiện trong truyện, nhưng lại là những kẻ quyền lực, đưa ra mệnh lệnh từ xa. Đó là Sơn Hưng Tuyên, quan chức cấp cao, người đứng đầu bộ đường, là người trong kinh, là người quyết định, hoặc thậm chí là những quyền lực trừu tượng hơn, như triều đình quốc gia... Dù không có hình thức, nhưng chính họ là nguyên nhân gây ra sự hủy hoại. Tài năng, đạo đức, trí tuệ, khí phách, quan tâm đến dân chúng, nghệ thuật... đều không phải là điều họ quan tâm. Họ chỉ cần những kẻ ngu ngốc để giữ vững quyền lực của mình, những kẻ mà họ có thể kiểm soát và sử dụng để bảo vệ sự thống trị bẩn thỉu của mình.
Thái độ thứ hai là sự kính trọng, sự tôn trọng tài năng và đạo đức. Đó là thái độ của viên quản ngục và nhà thơ.
Mọi người đều quý trọng cái đẹp, nhưng chỉ có những người thấu hiểu nó mới biết quý trọng nó. Nhà thơ hiểu rằng Huấn Cao không chỉ có tài năng văn chương mà còn có tài năng võ thuật, nhưng điều này chỉ được biết qua lời nói của viên quản ngục và các tin đồn. Khi nghe tin rằng một người như vậy sẽ bị kết án tử hình, họ cảm thấy tiếc nuối. Sự tốt lành và tài năng tự nhiên của Huấn Cao khiến nhà thơ cảm thấy đặc biệt trân trọng và quý mến. Mặc dù viên quản ngục có lẽ không có nhiều phẩm chất tốt, nhưng sự sáng suốt của ông được thể hiện qua câu nói: 'Người học thức giống như lúa và nếp, còn người ngu dốt giống như rơm và cỏ.' Sự đánh giá cao Cái Đẹp và việc thưởng thức nó như một niềm vui tinh tế trong cuộc sống chỉ làm cho nhân cách của ông ta trở nên cao quý hơn, thanh cao hơn.
Viên quản ngục đã hiểu được lòng thuần hậu của nhà thơ, trước hết là từ sự tiếc nuối chân thành, sau đó là từ việc thể hiện sự kính trọng đối với những người có phẩm chất và tài năng. Điều này chứng tỏ rằng việc đánh giá một người không chỉ là dựa vào lý lẽ mà còn phản ánh qua hành động. Viên quản ngục không giấu diếm sự kiêng nể và sự tôn trọng đối với Huấn Cao và không để quyền lực làm cho bọn lính tráng thách thức. Dù đã đắn đo mãi, ông mới dám bước vào buồng giam và bày tỏ lòng tôn trọng. Việc này chứng tỏ sự nhượng bộ của ông ta. Thông thường, các quan chức từ trên cao đến dưới lính thường tỏ ra vô duyên và sử dụng quyền lực để ép buộc. Nhưng viên quản ngục này đã tiếp cận nhà thơ với tư cách một người thấp kém hơn, dựa trên giá trị thực của phẩm chất và tài năng. Viên quản ngục mong muốn biến ước mơ của mình thành hiện thực và sẵn sàng chờ đợi mỗi ngày. Ông đã chuẩn bị kỹ lưỡng và mong chờ mỗi ngày. Ông đã mua sẵn một số lụa trắng và mong muốn có một câu đối được viết bởi Huấn Cao treo ở nhà riêng mình. Những nét chữ của Huấn Cao là một kho báu trên đời. Những người có tâm hồn như vậy, mặc dù ở trong môi trường khắc nghiệt của nhà tù, vẫn giữ được bản nguyên của họ, thể hiện sự thuần khiết và cao quý.
Viên quản ngục phải đối mặt với một môi trường khắc nghiệt, nơi mà mọi thứ đều tối tăm và đầy tàn bạo. Điều này đặt ra thách thức lớn cho ông ta. Nhưng dù ở trong môi trường như vậy, vẫn có những tâm hồn thuần khiết và cao quý tồn tại, và đó là điều đáng kính trọng nhất. Trong bùn lầy, vẫn có hương thơm của sen. Tính cách của nhà thơ và viên quản ngục tương thích nhau, tạo nên sự hòa hợp và đẹp đẽ.
Tính cách của hai nhân vật này bổ sung cho nhau, thể hiện rõ ràng sự trật tự và đạo đức trong truyện. Việc viết chữ trong buồng giam dưới ánh đuốc và niềm vui của Huấn Cao, cùng với sự tôn trọng của viên quản ngục, là biểu hiện của sự hòa hợp giữa ba nhân vật.
Thái độ của bậc chính nhân quân tử là thái độ cao quý nhất.
Huấn Cao là một nhân vật đã trở nên nổi tiếng thông qua lời đồn. Mặc dù không phải tất cả các đồn đại đều chính xác, nhưng việc đánh giá một người qua danh tiếng là đúng. Việc Huấn Cao bị kết án tử hình khiến nhiều người cảm thấy tiếc nuối. Công việc mà Huấn Cao đã làm là một phần của công việc quốc gia, không phải là điều gì đó mà những người trong ngục có thể hiểu. Từ những lời đồn đại này, Huấn Cao đã trở thành một nhân vật uy tín và nổi tiếng.
Trên khía cạnh tư duy của hai viên quản ngục, họ cũng nhấn mạnh tính cách của Huấn Cao, kể cả khi tên lính áp giải cảnh báo. Ba nhân vật có ba từ để đánh giá: thầy thơ buồn (vì có tài mà lại làm giặc thì thật đáng tiếc). Viên quản ngục gọi Huấn Cao là 'khoảnh' (ý là ông ít chịu viết chữ, ngoại trừ khi viết cho những người bạn thân). Tên lính áp giải gọi Huấn Cao là ngạo ngược: 'Chính là thủ xướng. Mong thầy cẩn thận. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong số họ.'
Tại sao nhà thơ lại buồn? Bởi vì ông nhận ra rằng người tử tù đó có tài năng. Có tài năng thì nên được sử dụng để phục vụ đời sống, đó là ước mơ của người xưa. Có tài năng và đức hạnh, dù gặp khó khăn cũng sẽ vượt qua. Nhà thơ nghĩ rằng việc sử dụng tài năng đó để làm giặc là điều đáng tiếc, vì không biết đúng sai mà lại bị kết án tử hình. Đây là cách đánh giá tài năng và Cái Đẹp trong cuộc sống.
Về 'khoảnh', điều đó có nghĩa là gì? Khoảnh về cái gì? Khoảnh với ai? Tài năng viết chữ của Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những người bạn thân. Ông không viết cho ai dễ dàng, không phải vì tiếc công mà vì ông nghĩ rằng không phải ai cũng biết đánh giá và trân trọng chữ viết đẹp.
Người bạn tri ki là người hiểu biết Cái Đẹp, trân trọng nó và những giá trị đẹp của con người mình. Viết chữ cho người bạn tri ki là chia sẻ tài năng và Cái Đẹp của mình. Điều này chứng tỏ sự trọng trách và tôn trọng đối với Cái Đẹp. Huấn Cao cũng như các nhà thơ khác trước khi qua đời, đã đốt bỏ tất cả vì họ cho rằng không xứng đáng với thế giới. Điều này chỉ ra rằng việc nhận ra Cái Đẹp cũng đồng nghĩa với việc trân trọng nó.
Việc tên lính áp giải gọi Huấn Cao là ngạo ngược không cần phải bàn cãi. Tư duy tự trọng của Huấn Cao được coi là ngạo ngược. Đối với hắn, một tù nhân phải biết tuân thủ, thậm chí phải chịu đựng cái chết, không nên giữ vị thế hay phẩm giá. Đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính áp giải thực ra coi Huấn Cao là người có vị trí cao hơn, dám khinh thường hắn ra mặt.
Đây là cách mà Huấn Cao được biết đến thông qua lời đồn, không chỉ trong suy nghĩ của những người đáng quý ở nhà ngục mà còn trong lời nói của tên sai nha. Nhưng Huấn Cao thì nghĩ gì về chính mình, về người và cách hành xử của mình?
Dưới sự quan tâm đặc biệt của viên quản ngục, đặc biệt là của thầy thơ, Huấn Cao ban đầu nhận những gì được đưa đến một cách thản nhiên, coi như là một phần của cuộc sống hàng ngày. Nhưng khi viên quản ngục bước vào buồng giam, tôn trọng và lễ phép, xưng Huấn Cao là người có đạo đức, hỏi xem cần thêm gì thì Huấn Cao chỉ đơn giản trả lời: 'Nhà ngươi đừng chạm vào đây.' Trong lòng Huấn Cao, sự phức tạp và ám muội, nhưng cuối cùng ông hiểu ra rằng không phải vậy. Khi thầy thơ tiết lộ ý định sâu xa của viên quản ngục, Huấn Cao mới nhận ra sự quý trọng của hành động kì lạ của họ và nhìn nhận viên quản ngục như một người hiểu và trân trọng Cái Đẹp. Ông chỉ ra ý nghĩa của việc giữ chữ viết đẹp và tặng lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: 'Để treo bức chữ đẹp ấy trong nhà, hãy thay đổi môi trường sống của mình.'
Lần này, Huấn Cao hạ bút lần thứ tư. Ông giữ giá trị của chữ viết đẹp của mình đến mức độ đó, vậy tại sao ông lại dùng bút lần này? Bởi vì lòng thành, ý thức quý trọng và sự biết lưu giữ Cái Đẹp của viên quản ngục. Huấn Cao thể hiện sự trân trọng đối với lòng hiền từ của họ và nhận ra sự đối xử tôn trọng đó.
Cảnh Huấn Cao viết chữ là một hình ảnh lạ mắt và đẹp đẽ, như một cảnh trong thần thoại, không phải của thế giới này. Buồng giam tối tăm, ẩm ướt, ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy. Ba người hoạt động, mỗi người mang một nhiệm vụ khác nhau. Đó là một hình ảnh lạ lẫm nhưng tràn ngập ý nghĩa.
Truyện kết thúc với nhiều ý nghĩa đậm nét. Thái độ của Huấn Cao vẫn là của một người chính trực và nhân hậu. Đối với viên quản ngục và thầy trò, Huấn Cao vẫn duy trì một khoảng cách nhất định nhưng đồng thời thể hiện sự quan tâm và tôn trọng.
Trong việc viết truyện này, Nguyễn Tuân có ý định gì thêm không? Tác giả rõ ràng muốn thể hiện sự tiếc nuối đối với một nhân vật có tài năng và đạo đức, một cá nhân vĩ đại trong một thời kỳ khó khăn của quốc gia, đồng thời truyền đạt một thông điệp bi thương về sự suy vong của đất nước và tất cả những giá trị cao quý bị áp đặt bởi chế độ thực dân phong kiến. Tác giả cũng khẳng định rằng dù cuộc sống có đen tối đến đâu, trong lòng nhân dân vẫn tồn tại những tấm lòng sáng sủa.
Một phân tích về tác phẩm Chữ người tử tù
Nguyễn Tuân, một nhà văn luôn tìm kiếm vẻ đẹp, đã mang đến cho văn học Việt Nam một phong cách độc đáo và tài năng. Trước Cách mạng, tác phẩm của Nguyễn Tuân thường khắc họa những nhân vật tài năng nhưng đầy mâu thuẫn với xã hội. Trong số những tác phẩm ấy, Chữ người tử tù nổi bật với nhân vật Huấn Cao, một người có tài năng với bút pháp và tinh thần cao quý mặc cho hoàn cảnh khó khăn.
Tác phẩm Chữ người tử tù được xuất bản trong tập Vang bóng một thời năm 1940, ban đầu mang tên Dòng chữ cuối cùng. Tác phẩm nhấn mạnh về cái đẹp và ca ngợi những con người sống đẹp với lối sống giản dị và thanh bạch. Điểm tâm của câu chuyện chính là cái đẹp này.
Nguyễn Tuân đã tạo nên một tác phẩm đặc sắc với câu văn tài tình và một tình huống truyện không giống ai. Tình huống này tạo ra sự kiện độc đáo trong tác phẩm, phản ánh một cách rõ ràng ý đồ của tác giả. Trong Chữ người tử tù, tình huống truyện mô tả cuộc gặp gỡ giữa viên quản ngục và Huấn Cao, tạo nên một câu chuyện với sự độc đáo và kịch tính, là một bức tranh về cái đẹp không giống ai.
Đọc tác phẩm này, không ai có thể không để lại ấn tượng về Huấn Cao - một nhân vật biểu tượng cho tầng lớp những người tài năng nhưng không được thừa nhận, không gặp thời. Ông là một anh hùng thất bại, một người dẫn đầu dân chống lại bất công, nhưng cuối cùng lại bị coi là kẻ phản quốc. Nhiều người cho rằng, Huấn Cao lấy cảm hứng từ Cao Bá Quát - một anh hùng có tài năng vượt trội và dũng cảm, cũng là một lãnh tụ của cuộc nổi dậy.
Trong tác phẩm, Huấn Cao được trình bày như một người được tôn trọng sâu sắc bởi một quan giám sát giáo dục và viên quản ngục. Với họ, Huấn Cao là một ngôi sao sáng chói. Dù người ta có nghĩ rằng việc như vậy không phù hợp, nhưng quản ngục lại rất quý trọng Huấn Cao, thể hiện sự ưu ái của Nguyễn Tuân đối với anh hùng thất bại.
Hình tượng Huấn Cao lấy cảm hứng từ Cao Bá Quát, nhân vật tài hoa và lòng dũng cảm. Nguyễn Tuân mô tả Huấn Cao như một biểu tượng của sự thanh cao và chính trực.
Trong tác phẩm, tài năng của Huấn Cao được nhấn mạnh thông qua lời kể của viên quản ngục và thầy thơ. Huấn Cao được tôn vinh là một người văn võ tài ba. Điều này thể hiện sự tinh tế của Nguyễn Tuân trong việc khắc họa nhân vật.
Sự tài hoa của Huấn Cao càng được phát huy rõ ràng hơn trong lòng người quản ngục, người khao khát sở hữu bút pháp của ông hơn bất kỳ thứ gì khác trên đời.
Khi nhận được thông báo về sáu tên tù án tử, trong đó có Huấn Cao là tên đứng đầu, viên quản ngục ngay lập tức muốn đối đãi đặc biệt với ông. Ông quyết định dọn dẹp lại phòng tù, sẵn sàng cho việc đặc biệt. Ông muốn cuối đời của Huấn Cao được thoải mái nhất, và ông đã đối đãi với ông một cách tử tế và ân cần. Ông không chỉ muốn thể hiện lòng tôn trọng của mình đối với tài năng của Huấn Cao mà còn muốn làm thỏa mãn sở thích của chính mình, muốn có được chữ viết của ông. Cái đẹp có sức mạnh lớn, khiến con người phải mê muội và sẵn lòng đối mặt với nguy hiểm.
Nguyễn Tuân không trực tiếp khen ngợi tài năng của Huấn Cao, nhưng qua những hành động của quản ngục và suy tư của họ, chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc về tài năng của ông. Việc miêu tả sự khao khát của quản ngục có được chữ viết của Huấn Cao đã làm nổi bật tài năng của ông, biến ông thành một nhà thơ tài ba hơn người. Thái độ của quản ngục phản ánh sự ngưỡng mộ và tôn trọng đối với tài năng của Huấn Cao, có thể coi như là sự tôn trọng của Nguyễn Tuân đối với cái đẹp.
Ngoài việc là một nghệ sĩ viết chữ tài hoa, Huấn Cao còn được biết đến với khí phách kiên cường của một anh hùng.
Nguyễn Tuân đã tạo dựng hình ảnh của một anh hùng vĩ đại, một người dám đứng lên lãnh đạo dân chống lại bất công. Thái độ của viên quản ngục thể hiện sự ngưỡng mộ và kính trọng, phản ánh tinh thần truyền thống và lòng tự hào về văn hóa dân tộc.
Khí phách của Huấn Cao không chỉ thể hiện khi ông tự do mà còn khi ông phải đối mặt với khủng hoảng. Ông luôn giữ vững lòng kiên cường và ngang tàng của mình.
Khí phách của Huấn Cao được thể hiện rõ qua lời của lính dẫn tù. Khi dẫn Huấn Cao tới trại giam, lính cảnh báo viên quản ngục rằng ông là người nguy hiểm nhất trong nhóm. Sự kiêu căng của Huấn Cao là dấu hiệu của một anh hùng đích thực.
Nguyễn Tuân đã tài tình thể hiện khí phách mạnh mẽ của Huấn Cao thông qua chi tiết dỗ gông. Đó là cách duy nhất mà Nguyễn Tuân có thể làm được điều đó!
Sau khi bước vào trại giam, Huấn Cao vẫn giữ thái độ thoải mái và tự nhiên. Ông nói với sự nhẹ nhàng, không hề thể hiện rằng mình là người đang bị giam giữ.
Hành động dỗ gông của Huấn Cao phản ánh khí phách kiên cường của ông. Sự thản nhiên của ông trong tình thế khó khăn khiến mọi người phải nể phục.
Khí phách của Huấn Cao càng rõ nét qua hình ảnh trong lao ngục. Dù ở trong tù, ông vẫn tự do và thoải mái, không hề chịu sức ép. Ông nhận biệt đãi từ quản ngục như một việc bình thường.
'Vẫn hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù'
Cái khí phách đầy ngạo nghễ của những người anh hùng khiến người bình thường như chúng ta phải ngưỡng mộ không ngớt. Và khí phách đó của Huấn Cao còn được thể hiện khi ông 'phớt lờ quyền lợi'.
Khi quản ngục hỏi thăm ông, Huấn Cao phản ứng kiêu căng, chỉ muốn sự riêng tư và không chấp nhận sự ân cần. Ông coi những quan lại của triều đình như kẻ xấu xa và không xứng đáng. Sự phản ứng của ông khiến người ta phải nể phục.
Với những anh hùng, cái chết chỉ là một phần của cuộc sống, không đáng sợ. Huấn Cao vẫn bình thản trước cái chết và dành những nét chữ cuối cùng cho những ước mơ của mình.
Khí phách của Huấn Cao không chỉ được thể hiện qua lời kể của nhân vật khác mà còn qua hành động và lời nói của chính ông. Nguyễn Tuân đã khắc họa Huấn Cao là một người tự tin và kiêu căng.
Không chỉ là người có tài hoa và đặc biệt hơn người, Huấn Cao còn được biết đến với khía cạnh là một con người có tâm hồn thiên lương tinh khiết.
Tâm hồn thiên lương là biểu hiện của bản tính đẹp của con người từ khi chào đời. Huấn Cao là một ví dụ sống của người mang trong mình tâm hồn thiên lương, được thể hiện qua sự quý trọng của ông đối với chữ viết và quan niệm về nó. Huấn Cao coi trọng chữ viết vì nó là một phần quý giá, không thể lãng phí. Ông viết chữ đẹp, nhưng chỉ trao nó cho những người xứng đáng, những người chung niềm tin. Đó là quan điểm của ông về cái đẹp và cái chữ. Huấn Cao tặng chữ viết cho quản ngục để biểu hiện lòng biết ơn của mình và sự tôn trọng đối với cái đẹp.
Hành động tặng chữ của Huấn Cao không chỉ là biểu hiện của lòng quý trọng con người và đền đáp, mà còn là sự ủng hộ cho ánh sáng thiên lương trong người khác. Viết chữ không chỉ là một hành động sáng tạo về mặt thẩm mỹ, mà còn là biểu hiện của đạo đức.
Tâm hồn thiên lương của Huấn Cao đã rõ ràng khi ông tặng chữ cho quản ngục, ông tôn trọng cái đẹp và khuyên nhủ quản ngục giữ gìn thiên lương của mình. Huấn Cao đã dùng tâm can cuối cùng của mình để khuyên bảo người khác hướng thiện. Ông đã khơi gợi tâm hồn thiên lương trong lòng người khác, thể hiện mình là một người anh hùng thực sự!
Huấn Cao là một nhân vật lý tưởng do Nguyễn Tuân sáng tạo, thể hiện tình yêu nước và quan điểm về cái đẹp. Nghệ thuật chân chính có sức hấp dẫn đặc biệt đối với những người yêu thích và trân trọng nó. Cái đẹp tác động đến tâm hồn của con người, nó là sự kết hợp của tài năng và tâm hồn.
Tuy nhiên, tác phẩm Chữ người tử tù không thể trọn vẹn ý nghĩa nếu không nhắc đến nhân vật quản ngục, một chúa ngục sống trong chốn đề lao 'tàn nhẫn', 'lừa dối', 'rác rưởi', nơi con người dễ rơi vào vực sâu của tà ác và hung dữ.
Sống trong môi trường với 'lũ quấy rối', nhưng quản ngục lại không giống như họ, ông là 'một giọng hát trong trẻo vang lên giữa bản hòa nhạc hỗn loạn'. Ông mang trong mình 'tính cách ôn hòa và trái tim trân trọng con người', là một tâm hồn trong sạch ở trong một môi trường đầy rẫy tàn dư.
Nguyễn Tuân đã tạo dựng hình ảnh của viên quản ngục thông qua hai khía cạnh: một là niềm đam mê với cái đẹp, và hai là lòng thiện ác, biết cách sống với tấm lòng trong sáng của mình.
Quản ngục là một người yêu cái đẹp, trân trọng tài năng, điều này được thể hiện khi ông biết Huấn Cao sắp được chuyển đến địa phương của mình. Ông đã tức thì thể hiện sự muốn 'đón tiếp' Huấn Cao và các tù nhân khác, bất kể nguy cơ cho tính mạng nếu bị lộ ra. Trái với những quản ngục khác, ông thể hiện sự 'đón tiếp' tôn trọng đối với một người tử tù kiêu hãnh.
Quan điểm sống của quản ngục là trân trọng cái đẹp và tài năng, vì ông, cái đẹp là tiêu chuẩn đầu tiên để đánh giá nhân cách của một người. Do đó, khi Huấn Cao đến, quản ngục đã rất đặc biệt quý trọng. Yêu cái đẹp và trân trọng tài năng, ông luôn khao khát được treo lên nhà mình một bộ đôi câu đối mà Huấn Cao viết, và nếu không làm được, ông sẽ ân hận suốt đời. Sở thích đó không phải ai cũng có, nó thể hiện sự cao quý và nghệ sĩ của ông. Không yêu cái đẹp và trọng tài năng, làm sao có thể hiểu và trân trọng được cái đẹp?
Vì vậy, mỗi hành động của quản ngục đối với Huấn Cao đều thể hiện sự kính trọng và khiêm nhường. Dù Huấn Cao tỏ ra ngạo nghễ, quản ngục vẫn giữ thái độ kính trọng, kiêng nể. Quản ngục, một người trọng cái đẹp và cái tài, làm sao có thể không kính trọng Huấn Cao, một người tài năng và kiêu hãnh?
Khi bị Huấn Cao hiểu lầm và khinh bạc, quản ngục vẫn giữ bản tính kính trọng, đáp lại với lễ phép và khiêm nhường. Quản ngục hiểu tính cách của những người như Huấn Cao, những người kiêu căng. Sự khinh bạc của Huấn Cao càng khiến quản ngục kính phục và biểu hiện sự tôn trọng với ông.
Quản ngục là một người yêu cái đẹp, khao khát cái đẹp để trân trọng và giữ gìn. Nguyễn Tuân đã thẳng thắn nhận định: người yêu cái đẹp và trân trọng cái đẹp không bao giờ là kẻ xấu.
Quản ngục cũng là người biết hướng thiện, dũng cảm sống theo tiếng gọi của thiên lương.
Bước vào nghề quản ngục khắc nghiệt, quản ngục cũng từng suy nghĩ rằng có lẽ mình đã chọn sai nghề. Ông hiểu rõ môi trường đầy tàn nhẫn và lừa dối. Nhưng ông không bao giờ quên tình yêu với cái đẹp. Gặp Huấn Cao, ông đối mặt với sự phân vân giữa nhiệm vụ và lý trí, nhưng cuối cùng, ông lắng nghe trái tim, chọn con đường của cái đẹp và thiện lương.
Tiếp nhận Huấn Cao, chứng kiến hành động 'dỗ gông' táo bạo, nhưng quản ngục không lưỡng lự, trực tiếp thể hiện tấm lòng chân thành, khiến mọi người đều bất ngờ đến mức 'nhắc nhở'.
Cuối cùng, khi Huấn Cao đồng ý cho chữ và đưa ra lời khuyên cho quản ngục, quản ngục không kìm được cảm xúc, cúi đầu kính phục. Bằng một lời nói và một hành động, thiên lương của quản ngục được phô diễn hoàn toàn nhờ cái đẹp.
Quản ngục đã vượt qua giới hạn để sống chân thật với bản thân và lương tri của mình, dù có nguy hiểm tới tính mạng. Ông là một con người đầy mâu thuẫn, tự tù của chính mình, lạc lõng giữa đề lao mà mình phải quản lý.
Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật quản ngục bằng tâm hồn yêu cái đẹp. Qua quản ngục, ông muốn thể hiện quan điểm về cái đẹp, rằng nó có thể làm cho con người trở về chân thiện mỹ của cuộc đời. Một người yêu cái đẹp và trân trọng cái tài sẽ không bao giờ trở thành kẻ ác.
Khám phá Chữ người tử tù mà không nắm vững cảnh 'cảnh cho chữ', sẽ không thể hiểu hết những ý nghĩa sâu xa mà Nguyễn Tuân muốn truyền đạt. Cảnh cho chữ là trọng điểm của tác phẩm, một cảnh 'xưa nay chưa từng có'.
Trong buồng giam chật hẹp, dơ bẩn, 'nơi tường xám những vết mốc, sàn đầy phân chuột phân gián', cái đẹp, cái tài hoa lại hiện hữu. Giữa đêm tối im lặng, khi tiếng mõ vọng vang, những chữ viết được tạo ra, khiến cho mọi người phải kinh ngạc. Đây là khoảnh khắc cuối cùng mà người anh hùng có thể truyền đạt 'hoài bão ước mơ tung hoành của cả một đời người'.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa từng có cảnh chữ được viết dưới bàn tay của một tử tù ngày mai sẽ bị hành quyết. Những kẻ uy quyền như quản ngục, thầy thơ lại phải khuất phục trước khí phách, tài hoa của phạm nhân. Sự giáo huấn không chỉ từ quản ngục tới phạm nhân mà ngược lại, từ phạm nhân tới quản ngục. Cúi đầu trước cái đẹp, cái uy nghi không làm cho quản ngục thấp hèn mà làm cho ông trở nên cao đẹp hơn.
Quản ngục kính trọng Huấn Cao, điều này làm tôn lên nhân cách đẹp, thánh thiện của ông, sự sùng bái với cái đẹp, cái tài và khí phách của người anh hùng.
Quản ngục là biểu tượng của quan niệm sâu sắc về nhân sinh của Nguyễn Tuân. Dù sống trong xã hội xấu xa, người ta vẫn có khát khao cái đẹp, thiện lương. Bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã tạo ra những nhân vật lý tưởng như Huấn Cao và quản ngục, biểu tượng cho sự đối lập trong chính thân phận và nội tâm.
Bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên những nhân vật trong sự hoàn thiện, hoàn mỹ tới mức lý tưởng hóa. Huấn Cao – một con người xuất chúng, không chỉ tài hoa mà còn có khí phách hơn người, cùng một trái tim chứa đầy thiên lương. Quản ngục – một con người sống giữa xã hội đen tối nhưng lại trở thành 'một thanh âm trong trẻo chen giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ', biết yêu cái đẹp, trọng cái tài, và phục cái thiện.
Ngoài ra, trong phần cảnh cho chữ, tác giả còn tạo ra sự đối lập từ không gian, thời gian, và cả cái đẹp so với cái xấu. Ngôn ngữ trong Chữ người tử tù rất phong phú, đa dạng các từ ngữ Hán Việt tạo ra bầu không khí cổ kính cho tác phẩm.
Chữ người tử tù được coi là tác phẩm xuất sắc nhất trong tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Nó đã giúp chúng ta nhìn thấy vẻ đẹp của một anh hùng tài hoa, kiêng nhẫn, đồng thời cũng truyền đạt quan điểm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong cuộc sống.
Phân tích về Chữ người tử tù - Mẫu 3
Chữ người tử tù là một câu chuyện ngắn hay, phản ánh tài năng văn chương của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn trong đó, đã được độc giả yêu thích, giành được sự công nhận cao trên thị trường văn học trước năm 1945, trong thời kỳ mạnh mẽ của văn học Quốc ngữ. Nếu Trần Tế Xương thể hiện sự bất mãn sâu sắc với xã hội phong kiến đang chuyển biến qua thơ phú, thì Nguyễn Tuân cũng thể hiện bất mãn ấy qua các tác phẩm ngắn của mình. Nếu Trần Tế Xương tố cáo sự giả dối, sự thất đức... của những quan to, Nguyễn Tuân lại tôn vinh những người có tài, có lòng hiếu thảo, sống theo truyền thống đạo đức, dù đối mặt với khó khăn và thất bại. Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời.
Chữ người tử tù là một câu chuyện với bối cảnh độc đáo, tình huống lạ. Và hai nhân vật chính, Huấn Cao và quản ngục, lại gặp nhau trong một môi trường thiên lương.
Quản ngục tiếp nhận sáu phạm nhân giang hồ do Huấn Cao dẫn đầu. Huấn Cao nổi tiếng với vẻ bề ngoài hùng dũng cùng tài viết chữ tuyệt vời khắp nơi. Mặc dù đang làm việc trong vai trò quản ngục, nhưng quản ngục này lại rất kính trọng những người có tài, tính cách hùng dũng, và chắc chắn anh ta đam mê văn chương đẹp. Sau khi phát hiện thầy thơ làm việc ở đây, quản ngục nồng hậu tiếp đón các phạm nhân, đặc biệt là Huấn Cao, hy vọng rằng người này sẽ viết một vài chữ. Khi nhận được lệnh triệu gọi sáu phạm nhân này để hành quyết, thông qua sự trung gian của thầy thơ, Huấn Cao đã đồng ý viết. Đêm đó, dưới ánh sáng đỏ rực của một ngọn đuốc cháy dầu, Huấn Cao viết chữ trên lụa cho quản ngục. Viết nhanh, rõ ràng, anh ta nói:
- ... Ở đây, không dễ để duy trì sự thiện lương và cuối cùng cũng dẫn đến việc mất đi cuộc sống lương thiện.
- ... Quản ngục cảm động, gật đầu đối với tù nhân...: “Người đam mê này xin kính lễ”.
Cốt truyện đơn giản nhưng không thiếu chặt chẽ, ngược lại mỗi chi tiết, mỗi tình huống gắn với nhau bằng một quan hệ nhân quả. Có ba tình huống chính xoay quanh việc quản ngục và phạm nhân Huấn Cao.
Nhận được thông báo rằng nhà lao sẽ tiếp nhận sáu phạm nhân nguy hiểm. Có nghi ngờ trong số đó có một người nổi tiếng về việc viết chữ đẹp, vì vậy quản ngục chuẩn bị đón tiếp phạm nhân.
Đón tiếp tù nhân. Quan ngục đặc biệt đối đãi Huấn Cao, tự mình đến thăm và khi nghe tin giải phóng sáu phạm nhân, quan ngục nhờ viên thơ của mình, qua đó Huấn Cao được tặng chữ viết và những lời khuyên.
Những chi tiết này liên kết với nhau thành một dòng văn mạch lạc nhờ cách diễn đạt từng câu, từng đoạn văn, đặc biệt là sử dụng từ ngữ gọn gàng, chính xác, liền mạch tự nhiên.
Các thuật ngữ liên quan đến chức vụ được sử dụng trong truyện cho thấy nhà văn đã nghiên cứu kỹ lưỡng về đề tài này trước khi viết. Hầu hết, các danh hiệu này được sử dụng trong thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn. “Phiến trát” là tài liệu chính thức, “đốc bộ đường” chỉ đại úy đô đốc cửu phẩm, và người có vị thế cao nhất là nhất phầm: “Thẳng, thập” chỉ người chỉ huy một đội quân gồm 10 lính, “ti Nết” là vị trí trong pháp luật..
Theo quan điểm của nhà văn, cả việc miêu tả con người lẫn bối cảnh đều chứa đựng những đoạn văn hay, đẹp, phù hợp với tâm trạng nhân văn:
'... Ngục quan suy tư ngồi bên bờ sông...” - Người đang ngồi đó, tóc đã bạc phơ, râu đã màu. Những đường nét trên khuôn mặt trước đây đầy biểu cảm, bây giờ đã trở nên êm đềm. Ở đây, bên bờ sông yên bình, im lặng, tĩnh lặng và êm đềm: quan ngục hiền lành, tôn trọng đạo đức, trân trọng tài năng. Đó là hình ảnh của một người đang đối mặt với một tình huống khó khăn.
- “..” Lúc đó, chiếc gông bị kéo mạnh, va vào cổ của năm người đứng phía sau, khiến họ nhăn mặt. Một trận mưa rào đã làm ướt nhũn những điểm nâu đen trên nền đá xanh...” : Cảnh tù đày, khổ cực nhục hình, mà người tù phải chịu trước khi đối mặt với cái chết vì tội phản nghịch.
Ngoài các nhân vật phụ như lính canh tù và viên thơ lại, truyện còn có hai nhân vật chính, ban đầu họ đều thuộc cùng một phe. Viên quan coi ngục biết Huấn Cao là người chịu trách nhiệm giảng dạy ở phủ, huyện. Có lẽ vì phản đối chính quyền nên bị buộc tội phản nghịch phải không?
Dù đã trở thành hai nhân vật thuộc hai phe đối lập, nhưng bản chất của họ đều hiện ra lòng nhân ái. Họ tôn trọng lẫn nhau, nếu có mâu thuẫn trong truyện thì chỉ là do hiểu lầm, và sau khi giải quyet, họ lại hiểu thông cảm, sẵn lòng giúp đỡ lẫn nhau, đặc biệt là Huấn Cao. Vì vậy, tâm lý của họ liên quan chặt chẽ đến suy nghĩ hoặc hành động của nhau, tạo nên mạch truyện càng rắn rỏi trong kỹ thuật diễn đạt.
Theo lời giới thiệu của viên quản ngục, Huấn Cao không chỉ giỏi viết chữ mà còn là người thông minh, có khả năng bẻ khóa và thoát khỏi tù? Một tài năng đa phương. Và đã từng bị giam giữ hơn một lần...
Khi đến trại giam, “Huấn Cao, lạnh lùng, đẩy mạnh mũi gông nặng, khom lưng đẩy mạnh đầu thang gông xuống trên thềm đá vôi đánh mạnh một cú.” Con người ấy có sức mạnh, trí tuệ, quyết đoán hơn người. Đó chỉ là về ngoại hình.
Về mặt tâm lí, qua bút của Nguyễn Tuân, nhân vật này cũng có nhiều điểm độc đáo. Trước hết là tội ác được ghi trong “phiến trát” : phản nghịch, bị án chém. Là người chống lại chế độ phong kiến. Một kẻ “phản nghịch” nhưng lại nổi danh và được mọi người kính trọng thì chắc là phải có những điểm đặc biệt. Sự khéo léo của nhà văn là ở việc kích thích sự tò mò, tìm hiểu về nhân vật trong người đọc.
Trước hết, Huấn Cao không khỏi thắc mắc tại sao lại được: “một người thơ gầy gò, mang rượu đến uống trước bữa cơm tù”. Nhưng ông ta “vẫn bình thản nhận rượu thịt, xem đó như một thói quen từng làm trong cái tâm trạng bình lúc tự do chưa bị giam giữ”. Đó là thái độ của một con người bình tĩnh, của người biết trước hậu quả của công việc mình làm. Là người giáo dục ở cấp huyện, phủ, chắc chắn Huấn Cao hiểu rõ đức tính “uy vũ bất năng khuất” của người quân tử. Ngay từ khi mới bước vào tù, Huấn Cao đã thể hiện đức tính ấy khi tự ý ra lệnh cho đồng tù với mình “dọn gông” trừ rệp! Bình tĩnh, tự do không hề thể hiện sự hoảng loạn ngay cả khi được nghe thầy thơ báo tin phải về kinh chịu án tử hình. Kẻ tù rất khôn ngoan và tỏ ra khinh bạc. Gặp quản ngục đến thăm, Huấn Cao vẫn lạnh lùng. Khi biết ý định của viên quản ngục, ông lại trả lời một câu mang ý khinh bỉ:
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây”.
Qua miêu tả của nhà văn “Huấn Cao đã đợi một trận bão tố đổ về và những thủ đoạn tàn bạo của quản ngục bị sỉ nhục” Biết rõ nhưng vẫn nói. Nói để làm gì? Để thử lòng tốt của viên quản kia, để nếu thực kính trọng ông ta thật thì cũng không bị liên lụy. Tội ai làm người ấy chịu cũng là đức tính của kẻ đạt nhân.
Và cuối cùng, Huấn Cao biết trân trọng người hiền, trân trọng người say mê cái đẹp nghệ thuật. Dù Nguyễn Tuân không tiết lộ nhiều về nhân vật nhưng có lẽ Huấn Cao cũng tự hỏi trong lòng khi được viên quản coi tù đối xử nhân từ.
Và khi đã đối mặt với tên quản ngục, bằng cách sử dụng từ ngữ khinh bạc, tràn đầy sự kiêu căng để đáp lại yêu cầu của hắn, Huấn Cao vẫn không chịu đầu hàng trước những cú đòn thù hằn. Thậm chí, Huấn Cao còn được đối xử đặc biệt tốt hơn. Và “Ông Huấn lại càng bất ngờ hơn nữa: năm đồng đội của ông đều được đối xử như vậy” chắc chắn Huấn Cao không thể không tự hỏi. Cho đến khi ông Huấn đến “gõ cửa buồng giam và lắc lư hắc kể cho tử tù” nghe thấu lòng viên quản ngục, và do dự thông báo cho ông Huấn biết việc về kinh chịu án tử hình” thì Huấn Cao mới nhận ra lý do của sự đối xử đặc biệt mà mình và các bạn đồng đội nhận được trong tù. Nguyễn Tuân đã khiến Huấn Cao “dừng lại suy ngẫm một lúc”. Ông suy nghĩ về tâm lý của quản ngục để sau đó đáp lại tấm lòng của hắn. Dù cách diễn đạt của câu nói cũng đầy kiêu căng nhưng lại chứa đựng nhiều sự thân thiện: '... Ta không bao giờ buộc mình phải viết câu đối vì vật chất hay quyền lợi… Ta đánh giá cao tấm lòng nhân ái của các người. Chắc là ta chẳng bao giờ biết rằng một người như thầy quản lại có những sở thích cao quý như vậy...”.
Nhưng việc trân trọng người hiền không chỉ làm được một điều ước mơ, mặc dù đối với viên quan coi ngục là một điều quan trọng, nhưng đối với Huấn Cao thì chỉ là một phần nhỏ của cuộc sống. Huấn Cao muốn con người hiểu được giá trị của cái đẹp để sống một cuộc sống tốt đẹp hơn, cao quý hơn. Chính vì thế mà Nguyễn Tuân để nhân vật gặp gỡ nhau trong một bối cảnh “chưa từng có trước đây” trong những gam màu đa dạng, lung linh một cách thiêng liêng và ma mị. Và sau khi “Một người tù, đeo còng, chân buộc xiềng đang viết chữ lên tấm lụa trắng sáng trên mảnh gỗ” xong. Nguyễn Tuân cho nhân vật đóng vai người tù “giúp viên quản ngục đứng thẳng lưng”. Hình ảnh đó thực sự đáng quý. Trong tình huống đó, quản ngục giúp đỡ Huấn Cao mới thực sự cần thiết, nhưng tại sao lại có sự thay đổi trong cử chỉ? Sự thay đổi cử chỉ mang lại ý nghĩa rõ ràng đó làm nổi bật lý tưởng của con người. Lý tưởng chính là sức mạnh của con người. Trong bức tranh của viên quan coi ngục, Huấn Cao đã khuyên:
“Ở đây là một nơi hỗn loạn. Ta khuyên thầy quản nên rời khỏi đây... ở đây khó giữ được lòng tốt vững vàng và rồi cũng sẽ đến lúc mất đi cả cuộc đời làm người tốt”.
Nhân vật Huấn Cao qua bút của Nguyễn Tuân là một người vừa tài năng vừa có đạo đức, sống không bị khuất phục. Còn viên quan coi ngục thì sao?
Tuổi đã bắt đầu già. Chỉ cần một vài chi tiết về mái tóc, râu và những nếp nhăn trên khuôn mặt, Nguyễn Tuân đã vẽ ra được phần quan trọng của dáng vẻ con người. Từ những đặc điểm đó, Nguyễn Tuân đã trực tiếp thể hiện quan điểm của mình về con người đó: “Trong hoàn cảnh khó khăn, con người sống bằng lòng tàn nhẫn, nhưng tính cách mềm mại và lòng biết quý trọng con người của viên quan coi ngục này là như một giọt nước trong sa mạc, nổi bật giữa một đám đông loạn lạc” : so sánh làm tôn lên vẻ đẹp tinh thần của viên quan ngục. Nguyễn Tuân cũng đưa ra nhận xét rõ ràng hơn về sự trái ngược giữa tâm hồn và hoàn cảnh sống của viên quan: “Ông trời đôi khi phạt những người thuần khiết đối mặt với một thế giới bẩn thỉu. Và những người thật thà lại phải chịu khổ trong cuộc sống với lũ ích kỷ”. Câu văn này có hai tác dụng: ca ngợi viên quan coi ngục và lên án xã hội hiện tại. Vậy sự thuần khiết của viên quan coi ngục là gì? Đó là:
Trầm trồ trước vẻ đẹp: “...Từ lâu, ước mơ của viên quan ngục này là một ngày được treo trên bức tranh tường của riêng mình do tay Huấn Cao viết '... Người tù vừa kết thúc một chữ, viên quản ngục lại cẩn thận đặt những đồng tiền kẽm vào ô chữ...” biểu hiện của sự tôn trọng chữ viết, tôn trọng tinh thần trong con người, dù đó là kẻ tử tù như Huấn Cao. Nhưng tại sao ông ta lại ở đây? Bởi vì “chọn nghề nhầm đấy...”.
Cẩn trọng, đầu tiên từ lúc bắt đầu, khi biết Huấn Cao đến, viên quản tù khôn ngoan trong câu chuyện để tìm hiểu thái độ của thầy thơ. Ngay đêm đó, “Ngục quan suy nghĩ ngồi nhìn sao”, ông phải suy nghĩ kỹ, tìm hiểu sâu hơn về lời nói của thầy thơ để dự đoán: “có lẽ lão này, cũng là một người khá đấy... Một người biết kính trọng tài năng, một người biết thương, biết trọng người có tài, hắn không phải là kẻ xấu hay vô tâm”. Biết điều nhưng vẫn tiến thăm thú nhẹ nhàng, không vội vàng. Là người hiểu biết chữ như ông, ông biết rõ lời khuyên của cố nhân: “Muốn thành công phải kiên nhẫn”.
Khi biết thầy thơ đồng tình với mình, viên quản tù mới dám mời Huấn Cao biệt đãi.
Tiếp xúc với Huấn Cao với thái độ “điềm tĩnh”. Bị Huấn Cao đuổi ra khỏi phòng thì lại lịch sự: “Xin được phép rời khỏi” như một người dưới trướng đối với sếp, một người dưới quyền đối với người có quyền lực, không phải là một viên quan coi ngục đối với một phạm nhân. Huấn Cao đã mong chờ sự trả thù nhưng viên quản lại không hành động “Nhưng ông hiểu rồi, những kẻ làm ầm lên, đếm cả trên đầu người khác cũng không biết có ai nữa, huống chi chỉ là một kẻ nhỏ lại giữ tù”.
Có thể là một người tỉnh táo. Được Huấn Cao viết tặng và được phạm nhân khuyên bảo, viên quản tù có lẽ đã nhận ra thân phận của mình nên '... xúc động, cúi chào phạm nhân một cách trang trọng, đưa tay gật đầu, bày tỏ với nước mắt: Kẻ ham mê này xin kính lễ thực sự thì đây chỉ là lời nói, nhưng có phải kết luận của truyện ngắn này sẽ mở cánh cửa không đóng chặt ở cuối cùng? Chuyện gì sẽ xảy ra với phạm nhân, với viên quan tù? Có ba kịch bản có thể xảy ra:
- Khi bị triệu về kinh và phải chịu án tại đó, viên quan coi ngục vẫn tiếp tục làm công việc cũ, điều này khiến hắn ta trở thành kẻ dối trá...
- Người tử tù bị triệu về kinh và phải chịu án tại đó. Viên quan coi ngục đã đệ đơn xin từ chức...
- Viên quan coi ngục đã cùng nhóm tử tù nảy mình trốn trại...
Trong ba khả năng trên, khả năng thứ hai có thể xảy ra vì viên quan coi ngục cảm thấy đã chọn sai con đường. Việc đệ đơn xin từ chức có thể cũng là một biểu hiện của sự chờ đợi thời cơ thuận lợi. Và dòng sông chống lại sức mạnh bất công vẫn luôn tồn tại trên thế gian...
Chữ 'Người Tử Tù' là một tác phẩm ngắn tuyệt vời, phản ánh sự tài năng của Nguyễn Tuân trong văn chương trước Cách Mạng Tháng Tám. Tài năng ấy được thể hiện qua cách viết sắc sảo, mạch lạc, thông qua cốt truyện chặt chẽ, qua những tình huống độc đáo, gần gũi và hấp dẫn mà vẫn không làm mất đi giá trị của nhân vật. Hình tượng của Huấn Cao trong tác phẩm có những đặc điểm độc đáo của một người theo đạo nho, luôn trung thành với lương tâm, bao gồm cả viên quan coi ngục. Truyền thống tôn nghiêm và đánh giá cao đạo đức hơn tài sản của gia đình đã vượt qua biên giới của hai nhân vật trái ngược trong hoàn cảnh sống, vượt qua khó khăn của cuộc sống để tạo ra một tinh thần xin và cho không giống ai trong lịch sử văn học, phản ánh chính xác tựa đề của tác phẩm “Vang Bóng Một Thời”.
Trong tập Mẫu 4, tác giả phân tích về chữ 'Người Tử Tù'.
Bữa Rượu Máu và Chữ 'Người Tử Tù' là hai truyện ngắn trong tập 'Vang Bóng Một Thời' (1940), thể hiện rõ tinh thần dân tộc của Nguyễn Tuân.
Các quan cao cấp đã thưởng thức 'bữa rượu máu' trên bãi sậy, khiến một trận gió oán hờn đuổi theo họ, làm bay mũ trắng trên đầu của công sứ. Trong truyện 'Chữ Người Tử Tù', tác giả ca ngợi những nhân vật chính trị phạm, những kẻ 'chọc trời khuấy nước'... đã rất rõ.
Hình tượng Huấn Cao có liên quan đến Cao Bá Quát, một nhà thơ tài hoa, phóng khoáng đã từng làm Hành tẩu ở bộ Lễ, sau đó bị giáng chức và tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình. Huấn Cao là biểu tượng của sự đẹp trong tác phẩm của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân mê mẩn Huấn Cao không chỉ vì tính cách 'chọc trời khuấy nước', mà còn vì tài hoa văn chương của ông.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ yêu cái Đẹp, đã dùng tài năng của mình để chống lại xã hội bất công. Viên quản coi ngục và Huấn Cao là hai trong số ít những người hiếm hoi này.
“Ta không hẳn bởi vàng bạc hay quyền lực, mà vì sự ép buộc phải viết câu đối. Cuộc đời chỉ có hai bộ tứ bình và một bức trung đường dành cho ba người bạn thân của ta. Ta cảm thấy lòng biết ơn và kính trọng tài năng của các người. Chẳng ngờ có người như thầy quản với những sở thích cao quý như vậy. Nếu không may, ta đã làm tổn thương một tấm lòng trong xã hội”.
Huấn Cao là một tâm hồn lãng mạn và tiến bộ. Các nhân vật lãng mạn thường được tác giả phóng đại và lí tưởng hóa. Tác giả tạo ra một cặp nhân vật (quản ngục và Huấn Cao) với tính cách tương đồng, và nhân vật quản ngục tôn vinh vẻ đẹp cao cả của Huấn Cao. Trước sự xuất hiện của Huấn Cao, người tử tù này đã được khen ngợi là 'văn võ đều có tài', là người nổi tiếng tỉnh Sơn về 'cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp'. Cái án tử hình của Huấn Cao khiến không gian trở nên trống vắng, mịt mùng sau tiếng trống thu của thành phố, như muốn chia tay một anh hùng: 'Tiếng trống đổ mồi ma, tiếng trống thành phố, tiếng chày mõ canh lên nhiều hơn. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay lên cao lắm, nâng đỡ một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ'. Kết thúc truyện ngắn, Huấn Cao trở thành một huyền thoại. Sau khi viết chữ, người tử tù 'khuyên thầy Quản nên thay đổi chỗ ở. Nơi đây không phải là nơi để treo một bức lụa trắng tinh vi với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, nó thể hiện những hoài bão, ước mơ của một đời người... Người quản ngục cảm động, vái người tử tù một cái, chắp tay nói một câu với dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng, làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.”
Sự đối lập giữa lí tưởng và hiện thực, giữa tính cách và hoàn cảnh là điều cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Huấn Cao và viên quản ngục đều là những người xa lạ với hoàn cảnh, đứng cao hơn hoàn cảnh: “Trong hoàn cảnh đen tối, người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa dối, nhưng tính cách dịu dàng và lòng biết giá người của viên quản ngục là một tiếng nói trong trẻo trong một bản đàn nhạc hỗn loạn. “Không chỉ là người xa lạ mà còn đối lập với hoàn cảnh: “Ông trời thỉnh thoảng lại đày ải những tấm lòng thuần khiết vào giữa một dòng cặn bã”. Nguyễn Tuân đã thành công trong việc sử dụng thủ pháp đối lập này ở phần kết thúc của tác phẩm. Đêm đó, người tử tù viết chữ cho viên quản ngục thật là một tình huống kì lạ, tương phản, đúng là “một cảnh tượng chưa từng có”. Những tình huống kì lạ đã làm nổi bật tính cách của những nhân vật lãng mạn, những con người đứng cao hơn hoàn cảnh, không chịu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan. Ngay trong tiểu thuyết hiện thực của Đốtxtôiépxki đôi khi cũng có những tình huống kì lạ như vậy. Một cô gái điếm, một kẻ sát nhân tụ tập trong một căn phòng hẹp, với ngọn nến bập bùng, trước pho sách vĩnh hằng của Kinh Thánh (Tội ác và hình phạt). Ở đây, cũng trong một cái buồng tối chật hẹp, đầy mạng nhện và phân chuột, phân gián trong không khí khói tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn làn hồ. Người tử tù đeo gông, chân vướng xiềng, đang tô đậm nét chữ vuông vắn, tuyệt đẹp trên tấm lụa trắng tinh, cạnh đó, viên quản ngục “khúm núm” và thầy thơ lại run run bưng chậu mực... Giữa chốn lao tù không phải bóng tối và sự tàn bạo có thể khuất phục được con người, mà chính con người lại có một sức cảm hóa kì diệu. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng tuyệt diệu, người tử tù đã làm chủ nhà ngục còn viên quản ngục thì lại khúm núm chắp tay vái người tử tù như vái thần tượng. Hành động cho chữ của Huấn Cao - những dòng chữ cuối cùng của một đời người - như một lần cuối khẳng định lại bản lĩnh khí phách của mình, truyền cái tài hoa, cái trong sáng cho những kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình ảnh người tử tù bỗng trở nên to lớn, cao cả lạ thường, vượt lên trên những cái thấp hèn dung tục của thế giới xung quanh và cái màu trắng của vuông lụa cũng như những dòng chữ tươi tắn tài hoa, thơm ngát như cũng sáng lên rạng rỡ, tất cả như muốn hóa thành bất tử, như một lời nhắn nhủ con người giữ lấy cái thiên lương đẹp đẽ và trong sáng của mình.
Trong những truyện Chữ người tử tù và Bữa rượu máu, các thủ pháp lãng mạn (lí tưởng hóa, phóng đại, nghệ thuật đối lập...) đôi khi xen kẽ với bút pháp hiện thực (các chi tiết cụ thể, chính xác, giàu chất tạo hình). Bên cạnh tinh thần dân tộc và thái độ phê phán cái xã hội kim tiền ô trọc, lấy thịt đè người, thì con người nghệ thuật; con người tỉa tót cảm giác, màu sắc và thanh âm vẫn còn hiện lên khá rõ qua từng trang viết.
Phân tích truyện Chữ người tử tù - Mẫu 5
Nguyễn Tuân là một nhà du lịch suốt đời tìm kiếm vẻ đẹp, không chỉ là vẻ đẹp thông thường mà còn là vẻ đẹp độc đáo, đặc biệt mang nét riêng. Dẫu đã trải qua thời gian, Chữ người tử tù vẫn là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, là sự tuyên bố nghệ thuật rõ ràng nhất về quan niệm nghệ thuật của ông.
Câu chuyện xoay quanh những tình huống đầy bi thảm, phức tạp. Đó là cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao dẫn đầu cuộc nổi loạn chống lại chính quyền, trong khi viên quản ngục lại là công cụ của chính quyền. Huấn Cao có tài nghệ cao quý trong việc viết chữ, trong khi viên quản ngục lại mơ ước sở hữu chữ của Huấn Cao. Sự phức tạp của tình huống đã làm nổi bật tính cách của nhân vật và là hành trình tìm kiếm giá trị ẩn chứa trong bóng tối của Nguyễn Tuân.
Nhân vật chính trong truyện là Huấn Cao. Ông được biết đến với tài năng viết chữ, và cũng là một anh hùng kiên cường, gan dạ, dũng mãnh. Tính cách của ông thể hiện sự kiêng nể và tài năng, ngay cả khi bị giam cầm. Quản ngục, người yêu thích vẻ đẹp và nghệ thuật, trọng trách ông và ngưỡng mộ ông. Điều này thể hiện qua việc ngưỡng mộ viên quản ngục với sự thanh thoát và tính nhân văn của ông.
Cảnh cho chữ là phần quan trọng nhất của tác phẩm. Nguyễn Tuân thông qua cảnh chữ đã thể hiện tài năng của mình trong việc tạo ra không gian và tạo ra hình ảnh sống động. Sự đối lập giữa Huấn Cao và viên quản ngục được thể hiện rõ ràng, thể hiện một cuộc đối thoại âm thầm giữa hai tâm hồn khác biệt. Thông điệp về vẻ đẹp và nhân văn được truyền tải qua cảnh chữ, cho thấy tầm quan trọng của cái đẹp trong cuộc sống.
Huấn Cao ra đi nhưng tác phẩm của ông vẫn còn tồn tại, như một lời khẳng định rằng 'cái đẹp luôn bất tử'. Cái đẹp đã làm cho quản ngục thay đổi và thể hiện sự lẽ phải trong tâm hồn nhân vật. Điều này là minh chứng cho ý kiến của Đôt-tôi-epxki rằng 'Cái đẹp cứu rỗi nhân loại'.
Chữ người tử tù là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, nơi mà tác giả đã truyền đạt rất nhiều thông điệp về nghệ thuật, về vai trò và sứ mệnh của cái đẹp. Điều này chứng tỏ 'cái đẹp thực sự là nguồn cứu cánh cho thế giới'.
Phân tích bài Chữ người tử tù - Mẫu 6
Nguyễn Tuân (19101987) sinh ra tại làng Mọc, hiện nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức khi Hán văn đã hạ mình. Dù di cư nhiều lần, Nhà văn vẫn tập trung làm báo và viết ở Hà Nội. Ông tham gia cách mạng sau thành công của tháng Tám, và thông qua bút lực của mình, ông tham gia vào cuộc chiến chống lại sự xâm lược của người ngoại quốc.
Nguyễn Tuân là một nhà văn, một nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm cái đẹp. Ông đã đóng góp cho sự phát triển của văn học tùy bút, mở ra một trình độ nghệ thuật mới; làm phong phú ngôn ngữ văn học dân tộc; đem lại cho văn học hiện đại một phong cách độc đáo.
Truyện ngắn Chữ người tử tù ban đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, được đăng trên tạp chí Tao Đàn vào năm 1938, sau đó được tuyển chọn để in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù.
Nhân vật chính trong truyện Chữ người tử tù là Huấn Cao, một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Đó là những người tài năng, không may mắn. Họ không chỉ có tài năng mà còn có tấm lòng trong sáng, dù không thành công nhưng vẫn kiêu hãnh, không chịu khuất phục.
Tình huống truyện là tình cảm xảy ra trong câu chuyện, tạo thêm sự độc đáo cho tác phẩm. Tình huống truyện thể hiện mối quan hệ giữa các nhân vật, giữa nhân vật và hoàn cảnh sống, qua đó phản ánh tâm trạng, tính cách, suy nghĩ... của nhân vật.
Nguyễn Tuân đã tạo ra một tình huống truyện độc đáo, phong phú, kịch tính cho hai nhân vật trong tác phẩm của mình. Hai nhân vật này là Huấn Cao, kẻ tử tù bị kết án tử vì phạm tội lớn đang bị giam giữ đợi ngày hành quyết, là người có tài năng nổi tiếng viết chữ đẹp... và nhân vật là viên quản ngục, người quản lý người tù, đại diện cho trật tự xã hội thời đại nhưng lại yêu cái đẹp, hâm mộ những người tài và có lòng tốt. Trên mặt trận xã hội, họ hoàn toàn trái ngược nhau: nhưng họ cùng có điểm chung là say mê vẻ đẹp tinh tế và có tấm lòng thanh khiết, lương thiện, biết đánh giá những người tài. Vì vậy, trong lĩnh vực nghệ thuật, họ là bạn tri kỉ của nhau.
Hoàn cảnh gặp gỡ của họ thật éo le: đó là trong nhà tù tối tăm, bẩn thỉu, nơi một người quản lý một người khác. Tình hình này tạo ra xung đột trong tâm trí của viên quản ngục: làm thế nào để đảm bảo trách nhiệm của một người giam giữ lại giữ cho lòng tốt với một người tài mà họ từng trân trọng và mong muốn gặp gỡ. Từ đó, nhiều tình huống gay cấn đã xuất hiện: người tử tù trở thành người mà viên quản ngục muốn nâng đỡ để có được một từ của ông; đồng thời cũng là người mở ra con đường cho sự hảo tâm trong tương lai của viên quản ngục. Chính tình huống đặc biệt này đã giúp làm nổi bật, tự nhiên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và làm sáng tỏ lòng nhân ái của viên quản ngục.
Huấn Cao là một người tài hoa khác thường, ông có tài viết chữ rất đẹp, “chữ đẹp và vuông lắm”, khiến nhiều người ao ước có được bức chữ viết của ông treo trong nhà mình, trong đó có viên quản ngục.
Huấn Cao là một con người kiêu hãnh, mạnh mẽ, là một anh hùng đầy kiên cường. Một kẻ tử tù đang đợi ngày ra hành lang vẫn giữ tinh thần tự do, bản lĩnh và không chịu khuất phục. Ngay cả khi đối mặt với cái chết, ông vẫn không sợ hãi. Sự mạnh mẽ của ông còn thể hiện qua thái độ kiên quyết trước sức mạnh và thậm chí là sự khinh thường của viên quản ngục.
Ông cũng là một người có lòng nhân ái và cao quý. Ông không phải là một người vô tình, ông biết trân trọng những người xung quanh, những người mà ông yêu quý. Khi nhận ra lòng chân thành và sự tôn trọng từ sự khinh thường và coi thường, ông chuyển sang thái độ tôn trọng. Đó là thái độ tôn trọng đối với con người có phẩm chất tốt: người tài, yêu thú vui cao quý, trong sạch. Ông sẵn lòng viết chữ mà không cần sức mạnh và tiền bạc có thể mua được cái chữ mà ông chỉ dành cho ba người bạn thân. Tuy nhiên, điều đáng quý nhất và là biểu hiện cao quý nhất của ông là những lời khuyên chân thành cuối cùng dành cho viên quản ngục trước khi vào thành phố để thụ án. “Ở đây vô cùng rối ren. Tôi khuyên ông nên thay đổi môi trường sống... ở đây lòng nhân ái khó giữ vững và cuối cùng cũng sẽ mất đi lòng thiện”.
Việc sử dụng chữ để giúp người khác là biểu hiện cao quý của Huấn Cao. Sự cao quý không chỉ là lòng nhân ái mà còn có sức mạnh thuyết phục con người. Ông đã khiến viên quản ngục ngưỡng mộ “Gập tay chào người tù một cái... một câu khiến dòng nước mắt chảy ra: kẻ dại dột này xin phục tùng”.
Nhân vật viên quản ngục trong tác phẩm làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Đây là một người không tạo ra cái đẹp nhưng biết trân trọng và yêu mến cái đẹp.
Là một viên quản ngục chịu trách nhiệm canh giữ tù nhân, hỗ trợ cho hệ thống cai trị đương thời nhưng viên quản ngục không phải là kẻ thiếu lòng nhân ái, tàn bạo, hay gian trá mà ngược lại ông vẫn giữ được phẩm chất cao quý trong môi trường tù địa tối tăm, đầy cám dỗ.
Viên quản ngục biết đánh giá giá trị của con người, biết tôn trọng những người tài. Điều này được thể hiện qua những biểu hiện đặc biệt đối với Huấn Cao và bạn tù của ông.
Ông là một người yêu thích thú vui tinh tế, cao quý: đó là sở thích viết chữ. Ước mơ cả đời của ông là có được đôi câu đối viết bởi chính tay Huấn Cao để treo trong nhà. Niềm ước mơ này mạnh mẽ vượt qua mọi nỗi sợ hãi, không quan tâm đến nguy hiểm, khiến tù nhân tử hình trở thành một biểu tượng để tôn kính.
Diễn biến tâm lý, hành động và cách ứng xử của viên quản ngục cho thấy dù sống trong tù đen tối nhưng ông vẫn giữ được phẩm chất cao quý, một tấm lòng trong sáng giữa thế gian, xứng đáng trở thành bạn tri kỉ của Huấn Cao. Nhân cách và tâm hồn của viên quản ngục, theo lời nhận xét của Huấn Cao, giống như “âm nhạc trong trẻo giữa một đàn nhạc rối loạn, hỗn loạn”.
Cảnh Huấn Cao viết chữ trong bóng tối của đêm là một trong những ý tưởng sáng tạo xuất sắc của tác giả để thể hiện hình tượng của nhân vật. Đây là một cảnh tượng trước đây không từng xuất hiện, nơi vẻ đẹp của việc viết chữ được thể hiện rõ ràng. Một cảnh tượng mà nội dung và không gian của nó hoàn toàn đối lập: cảnh viết chữ, vốn là một hình thức nghệ thuật tinh tế, diễn ra trong không gian tù đen, bẩn thỉu, ẩm ướt. Tuy nhiên, chính trong cảnh tượng như thế, vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc của việc viết chữ mới được làm rõ.
Người nghệ sĩ vượt qua khó khăn, đau đớn để tỏa sáng hơn, uy nghi hơn, để viết lên những nét chữ đẹp đẽ, những tâm huyết của cuộc đời: trong khi đó, người đại diện cho quyền lực lại trở nên nhút nhát, e dè khi chứng kiến những nét chữ quý giá mà cuộc đời họ dành cho.
Trật tự trong nhà tù đã bị hoàn toàn đảo lộn: những người tù trở thành người phát triển cái đẹp, cái lương thiện, trong khi người quản ngục, người đại diện cho công bằng, trở nên nhỏ bé, tầm thường.
Ở trong chốn tù tội tàn bạo, không phải kẻ thống trị làm chủ mà là người bị giam giữ làm chủ, cái thiện vẫn nổi bật và chiến thắng cái ác. Đây là chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối; là sự tôn vinh của cái đẹp, cái thiện và phẩm chất cao quý của con người.