Yêu cầu bài tập
Phân tích văn bản 'Tuyên bố độc lập' - Hồ Chí Minh.
Giải thích chi tiết
Tuyên ngôn Độc lập là một trong những tác phẩm văn học không thể phai nhạt của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tác phẩm này với lối viết hùng vĩ, lý luận sắc bén, và sức thuyết phục cao đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với người đọc và người nghe. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu nỗ lực, máu đã chảy, và bao nhiêu tính mạng đã hi sinh của những anh hùng Việt Nam trong những ngày đen tối, trong những cuộc giam cầm nơi những quần đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn Độc lập là sản phẩm của bao nhiêu hy vọng, cố gắng và niềm tin của hơn hai mươi triệu dân Việt Nam (Trần Dân Tiên).
Phần mở đầu của bản tuyên ngôn, chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra những lý do pháp lý, những 'lẽ phải' mà không ai có thể phủ nhận. Đó là những tuyên bố được Bác trích từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ. Cách này vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra tôn trọng sự thật dù chân lý ấy của các nước là kẻ thù. Cách trình bày này cũng chứa đựng một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ - những kẻ xâm lược đã vi phạm chân lý, vi phạm lương tâm và lý tưởng của cha ông họ. Đó là cách sử dụng lý lẽ của kẻ thù để chống lại kẻ thù, dùng gậy ông đập lưng ông. Hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều nhấn mạnh quyền con người, từ đó Bác mở rộng thêm về quyền dân tộc. Câu nói của Bác mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới. Đồng thời, đặt Bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu.
Bác lập luận như vậy là để kết án thực dân Pháp. Những từ bất hủ trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết án thực dân Pháp. “Thế mà đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa” Sau khi phê phán một cách tổng quan tội ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn nêu ra những chứng cứ cụ thể để lật tẩy sự “bảo hộ” của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho… dân chủ nào”. Lời kể tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận trùng điệp như: “Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…” thể hiện được tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách sử dụng hình ảnh của tác giả làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước… chúng tắm các cuộc… bể máu”.
Về mặt kinh tế, Bác cũng kết án thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc lột dân ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những người “dân cày và dân buôn trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh muốn thu hút sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong cuộc chiến bảo vệ nền Độc lập. Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng một chủ ngữ “chúng” để chỉ thực dân Pháp, nhưng vị ngữ thì luôn thay đổi: “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”… chỉ một kẻ thù là thực dân Pháp nhưng tội ác của chúng gây ra trên đất nước ta vô cùng nhiều. Cách lập luận đanh thép cùng với những chứng cứ cụ thể khiến kẻ thù không thể tránh khỏi tội ác. Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp gây ra là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh thì thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu hai tầng xiềng xích Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”. Tác giả cũng không bỏ sót những tội ác khác của thực dân Pháp như “trong năm năm chung bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.” Người kết án thực dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy nhằm phơi bày bản chất tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá', “bảo hộ” của chúng trước nhân dân thế giới, khơi lòng căm thù của nhân dân ta với thực dân Pháp.
Tác giả ca ngợi sức mạnh của dân tộc trong cuộc chiến chống thực dân phong kiến và giành lấy nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng… chế độ dân chủ cộng hoà”. Đoạn văn này diễn tả sự hào hùng. Chỉ có 9 từ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Bác tái hiện lại cả một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió và cực kỳ gay gắt của dân tộc ta. Ca ngợi truyền thống không khuất phục của dân tộc, tác giả nhằm kích thích tinh thần tự hào dân tộc, kích thích ý chí chiến đấu để nhân dân ta quyết tâm đối mặt với âm mưu của thực dân Pháp.
Tiếp theo, Người nêu cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Việt Minh đã đứng về phe đồng minh, đã chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật và đã giành chính quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của đất nước bằng những câu văn điệp ngữ mạnh mẽ: “Sự thật là…”. Trên cơ sở ấy, Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ trên đất nước Việt Nam…”
Cuối cùng thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độp lập, Người tuyên bố “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm vĩ đại của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài năng, Người đã thể hiện được phong cách của một dân tộc đang đứng lên chống lại đế quốc, thực dân phong kiến, giành Độc lập tự do cho quê hương. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu tiên Việt Nam xuất hiện trên trường quốc tế với tư cách là một quốc gia tự do và độc lập.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một tài liệu lịch sử quan trọng mà còn là một ví dụ điển hình về văn học chính trị. Nó chấm dứt thời kỳ mất nước, thời kỳ nhân dân ta sống trong cảnh khốn khổ, nô lệ của dân tộc, nó khởi đầu một thời kỳ mới, thời kỳ của Độc lập tự do.
Với cấu trúc lập luận chặt chẽ, lý lẽ sắc bén, văn phong hùng hồn, thống thiết, Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm xứng đáng so sánh với các tuyên ngôn khác trên thế giới và các tác phẩm văn học kinh điển của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.